A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN Tháng 10/2021

 

TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 65 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG

HỘI LIÊN HIỆP THANH NIÊN VIỆT NAM

 (15/10/1956-15/10/2021)

 

I. Khái quát về Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam và các hoạt động xây dựng và phát triển

          1. Khái quát 

          * Giới thiệu chung

          - Hội Liên hiệp Thanh niên (LHTN) Việt Nam là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên và các tổ chức thanh niên Việt Nam yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội LHTN Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.

          - Hội LHTN Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

          - Trải qua các thời kỳ hoạt động với những tên gọi khác nhau, Hội LHTN Việt Nam đã xây dựng nên truyền thống vẻ vang: đoàn kết mọi tầng lớp thanh niên đóng góp xứng đáng cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

          - Bước vào thời kỳ mới, Hội LHTN Việt Nam tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, tài năng và sức trẻ của thanh niên, đoàn kết mọi thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước cùng phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, vì hạnh phúc và sự tiến bộ của tuổi trẻ.

          - Hội LHTN Việt Nam đoàn kết, hợp tác với thanh niên, các tổ chức thanh niên trong khu vực và trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

          * Tôn chỉ, mục đích của Hội

          Hội LHTN Việt Nam có mục đích: Đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước cùng phấn đấu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

          * Chức năng của Hội LHTN Việt Nam

          - Tập hợp, đoàn kết, giáo dục mọi tầng lớp thanh niên Việt Nam. Hướng dẫn và tạo điều kiện để hội viên hoàn thiện nhân cách, trở thành công dân tốt, cống hiến tài năng sức trẻ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          - Đại diện, bảo vệ lợi ích hợp pháp của hội viên và tổ chức thành niên trước pháp luật và công luận.

          * Nhiệm vụ của Hội LHTN Việt Nam

          - Đoàn kết, tập hợp các lực lượng thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước cống hiến tài năng, sức trẻ cho mục tiêu chung, khuyến khích hội viên và thanh niên tham gia tích cực vào hoạt động ích nước, lợi nhà, hướng thiện.

          - Tổ chức các hoạt động thiết thực, góp phần giải quyết và đáp ứng những nhu cầu chính đáng của hội viên, thanh niên.

          - Kêu gọi và kiến nghị kịp thời với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội cùng chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên và các tổ chức thành viên.

          - Đoàn kết hợp tác với tổ chức thanh niên trong khu vực và trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội vì cuộc sống văn minh, hạnh phúc của tuổi trẻ.

          - Thường xuyên chăm lo xây dựng Hội, mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên, tích cực tham gia xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

          * Cơ cấu tổ chức của Hội LHTN Việt Nam

          Hệ thống Ủy ban Hội các cấp:

          - Hội LHTN Việt Nam được thành lập:

          + Cấp Trung ương.

          + Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương

          + Cấp quận, huyện, thị xã thành phố thuộc tỉnh và tương đương.

          + Cấp xã, phường, thị trấn và tương đương.

          Hiện nay 63/63 tỉnh, thành phố đã có Ủy ban Hội và Hội LHTN Việt Nam Tập Đoàn Sông Đà trực thuộc Trung ương Hội LHTN Việt Nam và có mạng lưới chi Hội, Câu lạc bộ, Tổ, Đội, Nhóm thanh niên ở cơ sở.

          Các tổ chức thành viên tập thể của Hội LHTN Việt Nam:

          - Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

          - Hội Sinh viên Việt Nam

          - Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam

          - Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam

          - Hội Trí thức Khoa học và Công nghệ trẻ Việt Nam

          - Câu lạc bộ Thanh niên khuyết tật Việt Nam

          - Câu lạc bộ Nghệ sĩ trẻ Việt Nam

          - Ban vận động thành lập Hội Công nghệ và Tin học trẻ Việt Nam

          - Ban vận động thành lập Hội Kiến trúc và Xây dựng trẻ Việt Nam

          - Ban vận động thành lập Hội Tài chính Ngân hàng trẻ Việt Nam

          Các đơn vị trực thuộc Hội LHTN Việt Nam:

          - Trung tâm Công tác xã hội Thanh thiếu niên

          - Trung tâm Tư vấn tình yêu, hôn nhân và gia đình

          - Trung tâm Giáo dục vị thành niên

          - Trung tâm Dạy nghề thanh niên

          - Trung tâm Thông tin nguồn lực Tình nguyện Việt Nam

          - Trung tâm Hỗ trợ Thanh niên Khởi nghiệp

          - Báo Thanh niên

          - Hãng phim Thanh niên

          - Cổng tri thức Thánh Gióng (thanhgiong.vn)

          2. Các mốc son lịch sử

          Công tác vận động thanh niên đã được những người Cộng sản Việt Nam chú trọng ngay từ trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính với tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, những người Cộng sản Việt Nam có một nguồn bổ sung cán bộ trẻ, năng động, là nòng cốt để hình thành nên Đảng Cộng sản.

          Ngày 26 tháng 3 năm 1931, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 2 tại Rạch Giá, Trung ương Đảng đã dành một phần quan trọng để bàn về công tác thanh niên và đi đến quyết định có ý nghĩa đặc biệt, như phải cử ngay các ủy viên của Đảng phụ trách các vấn đề liên quan tới thanh niên (sau gọi là công tác Đoàn) trong các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương. Tổ chức Đoàn nhanh chóng phát triển làm nòng cốt cho Đảng, thậm chí, trong một số giai đoạn đã thay mặt Đảng hoạt động công khai tập hợp quần chúng.

          Nếu như lực lượng Đoàn Thanh niên Cứu quốc là một thành phần của Việt Minh tham gia Tổng khởi nghĩa ở miền Bắc, thì tại miền Trung và miền Nam, do điều kiện tổ chức Đảng bị tan vỡ và bất đồng, các cán bộ Cộng sản miền Nam đã tận dụng cơ hội, cài cán bộ lãnh đạo để nắm tổ chức Thanh niên Tiền phong, từ đó phát triển nhanh chóng lực lượng để tham gia Tổng khởi nghĩa.

          - Các kỳ Đại hội và Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam trong các nhiệm kỳ

          * Tháng 6/1946, Tổng đoàn Thanh niên Việt Nam ra đời (gọi tắt là Đoàn Thanh niên Việt Nam), sau đổi thành Liên đoàn Thanh niên Việt Nam - là tổ chức rộng rãi của mọi thanh niên yêu nước tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Liên đoàn do Đoàn Thanh niên Cứu quốc làm nòng cốt. Cuối năm 1946 Liên đoàn Thanh niên Việt Nam là thành viên chính thức của Liên đoàn Thanh niên dân chủ thế giới.

          Tháng 02/1950, Liên đoàn thanh niên Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ I tại căn cứ địa Việt Bắc trong khói lửa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là sự kiện đánh dấu bước phát triển quan trọng trong công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên với vai trò nòng cốt của Đoàn Thanh niên Cứu quốc. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Chí Thanh (nguyên là Uỷ viên Bộ Chính trị, Đại tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) làm Chủ tịch Liên đoàn Thanh niên Việt Nam.

          * Ngày 08/10/1956, Trung ương Liên đoàn Thanh niên Việt Nam và Ban vận động mặt trận thống nhất thanh niên tổ chức Đại hội tại Nhà hát lớn - Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thống nhất các tổ chức thanh niên Việt Nam với tên gọi chung là Hội Liên hiệp Thanh niên (LHTN) Việt Nam. Huấn thị tại Đại hội, Bác Hồ căn dặn: “Là người chủ tương lai, cho nên toàn thể thanh niên ta phải đoàn kết chặt chẽ, phấn đấu anh dũng, vượt mọi khó khăn, thi đua giúp sức vào sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, để mình làm chủ mai sau”. Bác sỹ - Anh hùng lao động Phạm Ngọc Thạch được bầu làm Chủ tịch Hội.

          * Tháng 12/1961, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ II được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Giáo sư Phạm Huy Thông được bầu làm Chủ tịch.

          * Ngày 08/12/1994, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ III được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội với 400 đại biểu chính thức. Đại hội đã thông qua Điều lệ mới, hiệp thương chọn cử anh Hồ Đức Việt, Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn làm Chủ tịch Hội và quyết định lấy ngày 15/10/1956 là ngày truyền thống hàng năm của Hội LHTN Việt Nam.

          * Từ ngày 13-15/1/2000, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ IV đã được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội với 599 đại biểu. Đại hội hiệp thương chọn cử chị Trương Thị Mai, Bí thư Trung ương Đoàn làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam.

          * Tháng 2/2003, anh Hoàng Bình Quân, Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn được bầu làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam thay chị Trương Thị Mai nhận nhiệm vụ mới.

          * Ngày 25-27/02/2005, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ V đã diễn ra trọng thể tại Thủ đô Hà Nội với 798 đại biểu. Bí thư Trung ương Đoàn Nông Quốc Tuấn làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam.

          * Tháng 2/2008, anh Võ Văn Thưởng, Uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành TƯ Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn đã được bầu làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam thay anh Nông Quốc Tuấn nhận nhiệm vụ mới.

          * Đại hội VI diễn ra trong 2 ngày 26-27/4/2010 tại Hà Nội với 995 đại biểu. Anh Nguyễn Phước Lộc, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội LHTN Việt Nam khóa V được hiệp thương làm chọn cử làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam khóa VI.

          * Tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ 7, khóa VI, anh Phan Văn Mãi, Bí thư thường trực Ban chấp hành Trung ương Đoàn được hiệp thương chọn cử làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khóa VI thay anh Nguyễn Phước Lộc được điều động, phân công nhận nhiệm vụ mới.

          * Tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ 10, khóa VI, anh Nguyễn Đắc Vinh, Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn được hiệp thương chọn cử làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khóa VI thay anh Phan Văn Mãi được điều động, phân công nhận nhiệm vụ mới.

          * Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2014 - 2019, từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 12 năm 2014 tại Thủ đô Hà Nội. Anh Nguyễn Phi Long, Bí thư BCH Trung ương Đoàn, Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khóa VI được hiệp thương chọn cử giữ chức Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khóa VII, nhiệm kỳ 2014 - 2019.

          * Tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Hội LHTN Việt Nam lần thứ chín, khóa VII ngày 19/7/2018 tại tỉnh Kiên Giang đã hiệp thương chọn cử anh Lê Quốc Phong - Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn giữ chức Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khóa VII thay anh Nguyễn Phi Long được điều động, phân công nhiệm vụ mới.

          * Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2019 - 2024, từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 12 năm 2019 tại Thủ đô Hà Nội. Anh Nguyễn Anh Tuấn, Bí thư Thường trực BCH Trung ương Đoàn được hiệp thương chọn cử giữ chức Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khóa VIII, nhiệm kỳ 2019 – 2024.

          3. Các hoạt động xây dựng và phát triển

a) Hoạt động của Hội LHTN Việt Nam hiện nay

          * Mục tiêu: Xây dựng lớp thanh niên Việt Nam yêu nước, bản lĩnh, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là những công dân tốt; có ý thức kỷ luật, sống có trách nhiệm, giàu lòng nhân ái; chủ động học tập, có khát vọng vươn lên, lập thân, khởi nghiệp, lập nghiệp; hiểu biết về lịch sử, văn hoá, truyền thống đất nước; có đạo đức, lối sống văn minh, sức khỏe, kỹ năng, năng lực làm việc, tư duy độc lập, sáng tạo, tinh thần xung kích, tình nguyện, dám nghĩ, biết làm; chủ động hội nhập quốc tế.

          Xây dựng tổ chức Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam thực sự vững mạnh, có năng lực tập hợp, đoàn kết rộng rãi các đối tượng thanh niên, thực hiện tốt vai trò đồng hành với thanh niên, phát huy năng lực, trí tuệ, sức trẻ của thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

          b) Nhiệm vụ và Giải pháp

          Giai đoạn 2019 - 2024, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam tiếp tục thực hiện phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi”, chương trình “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” và chương trình “Xây dựng Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam vững mạnh”.

          *  Phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi”

          - Thanh niên Việt Nam yêu nước, bản lĩnh

          + Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, tuyên truyền, giới thiệu các nội dung cốt lõi của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hành làm theo lời Bác bằng các giải pháp, việc làm cụ thể.

          + Triển khai hiệu quả Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015 - 2030”.

          + Chủ động, kiên trì đổi mới phương thức tuyên truyền để thanh niên nắm bắt đầy đủ thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; cổ vũ tinh thần thượng tôn pháp luật. Chủ động cung cấp thông tin, trang bị kiến thức, phương pháp, kỹ năng để thanh niên tự phòng ngừa, tự sàng lọc, tự đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Thường xuyên nắm bắt tình hình dư luận xã hội và định hướng dư luận trong thanh niên. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để cung cấp và định hướng thông tin cho thanh niên. Vận động thanh niên tham gia tích cực cuộc vận động “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”.

          + Đổi mới phương thức tổ chức các hoạt động kỷ niệm, giúp thanh niên tìm hiểu, tự hào về truyền thống của dân tộc; phát huy lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc. Tập trung tổ chức các chương trình, hoạt động có tính giáo dục đồng loạt, rộng khắp nhân dịp các sự kiện chính trị, các ngày lễ lớn của Đảng, của dân tộc, của Đoàn, Hội. Thường xuyên tổ chức để thanh niên đến với địa danh lịch sử, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc, tôn tạo và phát huy giá trị các khu di tích lịch sử, di tích văn hóa; tham gia các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, chăm lo các thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng.

          + Vận động hội viên, thanh niên nâng cao nhận thức về chủ quyền an ninh tổ quốc, cổ vũ, bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc trong hội viên, thanh niên bằng những việc làm thiết thực gắn với điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân, tập thể. Tổ chức Hội các cấp tiếp tục triển khai thực hiện cuộc vận động “Nghĩa tình Biên cương Tổ quốc”, phong trào “Vì người bạn tòng quân”, “Vì các chiến sĩ nơi biên giới, biển đảo”. Tăng cường tổ chức các hoạt động giao lưu, kết nghĩa, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tại các vùng biên giới, biển đảo. Thực hiện công trình thanh niên toàn quốc về biển đảo.

          - Thanh niên Việt Nam sống đẹp, sống có ích

          + Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên. Tập trung giáo dục lòng nhân ái, tính trung thực, tinh thần trách nhiệm, yêu lao động. Phát huy vai trò, ảnh hưởng xã hội tích cực của những tấm gương “Thanh niên sống đẹp”, “Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác”, “Thanh niên khởi nghiệp”,  “Thầy thuốc trẻ tiêu biểu”, người nổi tiếng, người của công chúng đối với thanh niên. Tuyên truyền về những tấm gương, hành động đẹp của thanh niên trên truyền thông đại chúng và mạng xã hội.

          + Tổ chức triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho thanh niên; thành lập các đội hình, CLB thanh niên tuyên truyền pháp luật, phòng chống tệ nạn xã hội, bạo lực. Tổ chức diễn đàn “Thanh niên với pháp luật”, “Pháp luật và cuộc sống thanh niên”, thực hiện tốt cuộc vận động “Thanh niên với văn hóa giao thông”. Tuyên truyền, vận động thanh niên thực hiện nghiêm Luật phòng, chống tác hại rượu bia.

          + Vận động hội viên, thanh niên tích cực thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh”; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; tham gia phòng, chống tệ nạn xã hội, bài trừ các hủ tục lạc hậu, tích cực xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Tổ chức liên hoan, tuyên dương “Gia đình trẻ văn hóa, hạnh phúc”.

          + Triển khai chương trình “Mỗi thanh niên một quyển sách làm bạn”, vận động xây dựng tủ sách cho thanh niên vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, biển đảo.

          + Tổ chức các cuộc vận động sáng tác tác phẩm nghệ thuật cho thanh niên, bình chọn các văn nghệ sĩ trẻ có nhiều tác phẩm mang tính giáo dục, tác động tích cực đến nhận thức, lối sống của thanh niên.

          + Tiếp tục triển khai và đổi mới nội dung, hình thức tổ chức giải thưởng “Thanh niên sống đẹp” để tuyên dương và nhân rộng điển hình thanh niên tiên tiến trên mọi lĩnh vực.

          + Tiếp tục thực hiện chương trình “Tỏa sáng nghị lực Việt” tôn vinh những tấm gương chân thực về những con người nghị lực, khơi dậy những giá trị sống tốt đẹp, đồng thời lan tỏa nghị lực vượt qua khó khăn, bệnh tật để vươn lên trong thanh niên.

          - Tổ chức đa dạng các hoạt động giáo dục, cảm hóa và xây dựng các mô hình hỗ trợ thanh niên chậm tiến, thanh niên hoàn lương, thanh niên sau cai nghiện ma túy; tiếp tục triển khai chương trình “Thắp sáng ước mơ hoàn lương”, duy trì, thành lập các câu lạc bộ “Thắp sáng niềm tin”.

          - Thanh niên Việt Nam sáng tạo, khởi nghiệp

          + Tổ chức các hoạt động tạo môi trường để thanh niên phát huy tính sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học, lao động, công tác, phát huy sáng kiến để nâng cao hiệu quả làm việc, cải cách hành chính. Tổ chức cuộc vận động “Thanh niên sáng tạo vì đất nước phát triển”, trao giải thưởng “Thanh niên sáng tạo” hàng năm. Xây dựng các mô hình câu lạc bộ, đội, nhóm thanh niên học tập, đổi mới phương pháp dạy và học. Khuyến khích thanh niên nghiên cứu khoa học, triển khai các công trình, sản phẩm sáng tạo phục vụ học tập; cải tiến khoa học công nghệ, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, gia tăng giá trị sản phẩm, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, phát triển kinh tế biển, du lịch biển, đảo; đổi mới quy trình, thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác tham mưu, phục vụ; trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, làm chủ công nghệ, vũ khí, khí tài hiện đại; tham gia giải quyết các vấn đề khó khăn, bức xúc của cộng đồng.

          + Triển khai các hoạt động hỗ trợ thanh niên tự học tập, trang bị kiến thức về khởi nghiệp. Tổ chức chương trình giao lưu chia sẻ kinh nghiệm khởi nghiệp, các tọa đàm về các giải pháp khởi nghiệp từ việc phát huy thế mạnh địa phương cho thanh niên, tìm kiếm ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo khả thi để tư vấn hỗ trợ, huy động nguồn lực hỗ trợ cho các ý tưởng khởi nghiệp của thanh niên, kết nối các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, các nhà đầu tư khởi nghiệp để hỗ trợ các dự án khởi nghiệp của thanh niên. Giới thiệu công nghệ mới, mô hình quản trị, các mô hình phân phối sản phẩm mới.

          + Tổ chức các chương trình kết nối doanh nhân các khu vực; phát huy vai trò của các chuyên gia trên các lĩnh vực, các doanh nhân trẻ thành đạt, các nhà khoa học, các công chức trẻ trong cơ quan quản lý nhà nước tham gia tư vấn hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp; tổ chức các hội chợ, các cuộc xúc tiến thương mại để vận động doanh nhân trẻ tiêu dùng sản phẩm của nhau. Phối hợp với các bộ, ngành tham mưu cho Chính phủ có cơ chế hỗ trợ và thúc đẩy thanh niên khởi nghiệp.

          - Thanh niên Việt Nam tình nguyện vì cộng đồng

          + Tiếp tục tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của chương trình “Tình nguyện mùa Đông”, “Xuân tình nguyện”, “Tháng ba biên giới”, “Chiến dịch thanh niên tình nguyện Mùa hè xanh”, kịp thời hỗ trợ và chia sẻ khó khăn với nhân dân và thanh thiếu nhi vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.

          + Triển khai các hoạt động tình nguyện theo chuyên đề, như: xây dựng Nhà Nhân ái, Nhà thích ứng với lũ lụt, Nhà Bán trú cho em, Trường đẹp cho em, đường giao thông nông thôn, Cổng trường an toàn giao thông, Bến đò ngang an toàn, điểm giao cắt đường bộ - đường sắt an toàn; điểm sinh hoạt, vui chơi cho thanh thiếu nhi, con đường em đến trường.

          + Đẩy mạnh các hoạt động hiến máu tình nguyện trong thanh niên. Phối hợp với Hội Chữ thập đỏ, các Trung tâm truyền máu xây dựng các đội thanh niên ứng trực tình nguyện hiến máu, ngân hàng dự trữ máu, ngân hàng máu sống, máu hiếm...; tổ chức tuyên truyền, biểu dương, tôn vinh các đội hình và cá nhân xuất sắc trong công tác hiến máu tình nguyện.

          + Đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, tổ chức các chương trình khám chữa bệnh tình nguyện theo chuyên đề cho người nghèo như: hành trình “Nhân ái vì sức khỏe cộng đồng”; chương trình “Mang âm nhạc đến bệnh viện”, “Cùng sống khỏe”,“Tiếp sức người bệnh”, hoạt động khám, chữa bệnh cho người nghèo, mổ thay thủy tinh thể cho người già, mổ điều trị hở van tim cho trẻ em, tập huấn sơ cấp cứu cho giáo viên mầm non và giáo viên tiểu học, tặng tủ thuốc cho ngư dân…

          + Vận động những cá nhân có uy tín trong nhiều lĩnh vực tham gia các chương trình tình nguyện của Hội. Tổ chức các chương trình tình nguyện, chương trình nghệ thuật ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên cương Tổ quốc, vùng biển đảo để phục vụ đồng bào và cán bộ, chiến sỹ. Tổ chức các chương trình biểu diễn gây quỹ ủng hộ người nghèo, hỗ trợ công tác an sinh xã hội.

          + Triển khai các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức của thanh niên trong công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phối hợp xây dựng và triển khai các dự án bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp tục thực hiện tốt chiến dịch “Hãy làm sạch biển”, cuộc vận động “Thanh niên Việt Nam chống rác thải nhựa”; phát hiện, đấu tranh chống các hành vi hủy hoại tài nguyên, môi trường. Xây dựng và thực hiện các đề án, các mô hình cộng đồng về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.

          + Tập hợp, đoàn kết, điều phối và hỗ trợ hoạt động tình nguyện của các câu lạc bộ, tổ, đội, nhóm thanh niên; nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm bảo đúng đối tượng, địa chỉ cần giúp đỡ. Định kỳ phối hợp tổ chức “Ngày hội tình nguyện quốc gia”, “Giải thưởng tình nguyện quốc gia”.

          - Thanh niên Việt Nam khỏe thể chất, vững kỹ năng, chủ động hội nhập quốc tế

          + Tuyên truyền rộng rãi trong thanh niên về ý thức rèn luyện thể dục, thể thao, vận động thanh niên tự giác tập luyện thể dục, thể thao, rèn luyện sức khỏe hằng ngày tùy theo điều kiện của mỗi cá nhân. Tổ chức Hội các cấp duy trì tổ chức các hoạt động thi đấu, giao lưu thể thao tối thiểu 01 năm/lần dành cho cán bộ Hội, hội viên, thanh niên. Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, uy tín các giải thể thao trong thanh niên. Phát động phong trào “10.000 bước mỗi ngày”.

          + Tổ chức Hội các cấp triển khai các loại hình tư vấn tâm lý cho thanh niên. Xây dựng bộ công cụ, tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho thanh niên. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tác hại của ma túy, rượu bia, thuốc lá và các chất kích thích.

          + Tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của thanh niên, khuyến khích thanh niên tham gia các tổ chức câu lạc bộ, tổ, đội, nhóm theo sở thích và nhu cầu, nghề nghiệp của thanh niên.

          + Xây dựng các hoạt động hỗ trợ nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành xã hội cho thanh niên. Chú trọng các kỹ năng giúp thanh niên chủ động, tự tin trong thể hiện năng lực bản thân, giao tiếp xã hội.

          + Tuyên truyền nâng cao nhận thức của thanh niên về hội nhập quốc tế; thời cơ và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế; mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc chủ động học tập, rèn luyện, nâng cao kiến thức, kỹ năng hội nhập quốc tế.

          + Vận động hội viên, thanh niên tích cực học tập tiếng Anh, tích cực tham gia triển khai thực hiện Đề án nâng cao năng lực tiếng Anh cho thanh thiếu niên Việt Nam do Đại hội Đoàn lần thứ XI thông qua, khuyến khích thanh niên tham gia các diễn đàn thanh niên khu vực, thế giới.

          + Tổ chức “Ngày văn hóa” ASEAN và các nước trên thế giới. Phối hợp, tham gia tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, thể thao giữa thanh niên các nước trong khu vực, các tỉnh giáp biên, các tổ chức Hội ở nước ngoài.

          * Chương trình “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”

          - Chương trình tạo môi trường thực tiễn để thanh niên học tập, lập thân, lập nghiệp, nâng cao sức khỏe, kỹ năng, đời sống văn hóa tinh thần, khẳng định vai trò của tổ chức Hội trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước. Tham gia xây dựng, thúc đẩy và phối hợp giám sát việc thực hiện các chính sách cho thanh niên. Tổ chức Hội các cấp kịp thời kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền, nêu ý kiến trước công luận về sự vi phạm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của hội viên, thanh niên. Phối hợp tổ chức Đoàn và Bộ ngành liên quan đề xuất các chính sách cụ thể để chăm lo, hỗ trợ thanh niên. Thành lập Hội đồng tư vấn, đồng hành với thanh niên Việt Nam gồm các cá nhân có uy tín trong xã hội.

          - Tăng cường phát hiện, tập hợp, bồi dưỡng và phát huy thanh niên tài năng. Khuyến khích, tạo điều kiện để thanh niên có tài năng phát huy năng lực, cống hiến cho đất nước. Tích cực, chủ động tìm kiếm, khai thác các nguồn lực xã hội để nâng cao chất lượng, uy tín của các giải thưởng, các cuộc thi để tôn vinh thanh niên tài năng trong các lĩnh vực và hỗ trợ thanh niên tài năng có hoàn cảnh khó khăn.

          - Tổ chức các hoạt động hỗ trợ thanh niên dân tộc thiểu số, đặc biệt là thanh niên thuộc nhóm dân tộc thiểu số dưới 10.000 người. Tổ chức các hoạt động hỗ trợ bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bài trừ mê tín dị đoan và các tập tục không còn phù hợp với sự phát triển chung của xã hội và quy định của pháp luật. Tuyên truyền phòng chống hôn nhân cận huyết, tảo hôn, buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới, bình đẳng giới. Đẩy mạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, khởi nghiệp, tạo việc làm ổn định cho thanh niên dân tộc thiểu số. Tổ chức các chương trình văn hóa, nghệ thuật, các hoạt động văn hóa; xây dựng sân chơi, tặng trang thiết bị tập luyện thể dục thể thao cho thanh niên dân tộc thiểu số. Triển khai các dự án hỗ trợ sinh kế cho người khuyết tật, tổ chức các chương trình động viên, khuyến khích thanh niên khuyết tật nỗ lực, chủ động, tự tin hòa nhập xã hội. Phối hợp với các cơ quan và tổ chức có liên quan triển khai các dự án xây dựng học liệu, học cụ cho thanh niên khuyết tật. Triển khai mô hình thanh niên Nhà sinh hoạt cộng đồng dành cho 16 dân tộc thiểu số rất ít người.

          - Tổ chức các hoạt động hỗ trợ nhóm thanh niên yếu thế cơ hội phát triển trên địa bàn dân cư. Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động hướng nghiệp cho thanh niên. Xây dựng các mô hình hỗ trợ thanh niên chậm tiến, thanh niên hoàn lương tái hòa nhập cộng đồng. Nắm bắt kịp thời và chủ động tiếp cận, tìm hiểu, hỗ trợ thanh niên có dấu hiệu dẫn đến vi phạm pháp luật, thanh niên chậm tiến. Tư vấn, giới thiệu, tạo việc làm cho thanh niên thất nghiệp, chưa có việc làm ở khu vực nông thôn, khu vực đô thị hóa. Tổ chức các chương trình văn hóa nghệ thuật nâng cao đời sống tinh thần, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa của thanh niên các vùng trong cả nước.

          - Tổ chức các hoạt động hỗ trợ tư vấn sức khỏe, pháp luật, kỹ năng quản lý thu nhập, chi tiêu, kiến thức về tình yêu, hôn nhân, gia đình và sức khỏe sinh sản cho thanh niên công nhân. Phối hợp tổ chức các lớp đào tạo nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thường xuyên tổ chức các sân chơi, các chương trình giao lưu văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao trong thanh niên công nhân, các chương trình bán hàng bình ổn giá cho thanh niên công nhân.

          * Chương trình “Xây dựng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam vững mạnh”

          Xây dựng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam vững mạnh về tổ chức và hành động, trong đó chất lượng cán bộ Hội là trọng tâm, chất lượng cơ sở Hội là đột phá.

          - Công tác cán bộ Hội

          + Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có chất lượng, trưởng thành từ phong trào thanh niên. Định kỳ tập huấn về kỹ năng, phương pháp, nghiệp vụ cho cán bộ Hội theo chức danh. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng huấn luyện Trung ương. Tổ chức Trại huấn luyện Nguyễn Chí Thanh cấp Trung ương theo khu vực định kỳ 2 năm/lần, liên hoan Huấn luyện viên cấp I Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam toàn quốc. Phối hợp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam bổ sung, biên soạn mới tài liệu tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ Hội các cấp. Phối hợp Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức tập huấn cán bộ Hội ở nước ngoài 02 năm/ lần.

          + Tập hợp những cá nhân tiêu biểu có uy tín, có trình độ, có năng lực, trưởng thành từ phong trào thanh niên để bồi dưỡng trở thành thủ lĩnh thanh niên, cán bộ Hội chủ chốt các cấp và lực lượng nòng cốt trong thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên tín đồ tôn giáo, thanh niên công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, thanh niên Việt Nam ở nước ngoài.

          + Tổ chức xét, trao “Giải thưởng 15/10” tôn vinh các thủ lĩnh thanh niên, cán bộ Hội tiêu biểu hàng năm.

          - Công tác hội viên

          + Tập trung phát triển hội viên mới, chú trọng đến chất lượng hội viên, không chạy theo số lượng; phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn trong việc thực hiện chủ trương “1+1” (mỗi đoàn viên, hội viên giới thiệu được ít nhất một thanh niên tham gia Đoàn, Hội). Thực hiện đúng quy định, nguyên tắc, quy trình và thủ tục công nhận thanh niên vào Hội, tổ chức lễ công nhận hội viên mới, hội viên danh dự theo nghi thức Hội.

          + Tổ chức cơ sở Hội các cấp thường xuyên rà soát số liệu thanh niên, số liệu hội viên có mặt tại địa phương để chủ động trong công tác đoàn kết tập hợp thanh niên, phát triển hội viên mới. Đổi mới công tác quản lý hội viên phù hợp với điều kiện thực tiễn công tác của từng địa phương, đơn vị.

          + Tập trung cho công tác tập hợp thanh niên khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, thanh niên Việt Nam ở nước ngoài, thanh niên trên địa bàn dân cư. Thành lập các câu lạc bộ, đội, nhóm thanh niên theo sở thích để đa dạng hóa các loại hình tập hợp thanh niên đặc biệt trong các vùng tôn giáo, vùng đồng bào dân tộc.

          + Tuyên truyền, giới thiệu về Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cho hội viên; phát hiện, bồi dưỡng hội viên ưu tú phấn đấu trở thành đoàn viên.

          - Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Hội

          + Có giải pháp tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, bất cập trong cơ chế hoạt động Hội trên địa bàn dân cư.

          + Thành lập tổ chức Hội ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước; ở nước ngoài; khu vực thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên tín đồ tôn giáo, các khu đô thị mới, khu chung cư. Triển khai các hoạt động hướng dẫn về nghiệp vụ công tác Hội; tư vấn, hỗ trợ phương pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của thanh niên. Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Hội trong các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức Hội Thanh niên Việt Nam ở nước ngoài, các Câu lạc bộ, đội, nhóm thanh niên.

          + Kiên trì mục tiêu “Đoàn mạnh, Hội rộng” với phương châm ở đâu có thanh niên ở đó có tổ chức Hội hoặc các hoạt động của Hội. Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của chi hội, nhất là chi hội trên địa bàn dân cư, trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước; xác định nhiệm vụ của chi hội phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ của địa phương, đơn vị. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức sinh hoạt, hoạt động gắn với nhu cầu, nguyện vọng của hội viên, thanh niên, coi trọng tính làm chủ của hội viên trong hoạt động.

          + Đẩy mạnh các hình thức tập hợp thanh niên trên mạng Internet và các diễn đàn, mạng xã hội… Tiếp tục mở rộng các hình thức chi hội, câu lạc bộ trực thuộc Uỷ ban Hội cấp tỉnh, huyện.

          - Củng cố và nâng cao chất lượng tổ chức thành viên tập thể của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam

          + Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: đảm bảo vai trò nòng cốt chính trị của tổ chức Đoàn đối với tổ chức Hội trong công tác xây dựng và tổ chức hoạt động của Hội; tăng cường tính định hướng chính trị và tạo điều kiện thuận lợi để Hội chủ động hoạt động. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn tham gia công tác Hội; chủ động phát hiện, lựa chọn những nhân tố tích cực trong hoạt động Hội làm nguồn cán bộ Đoàn các cấp.

          + Hội Sinh viên Việt Nam: tiếp tục nâng cao chất lượng, vai trò, vị thế của Hội trong sinh viên, nhà trường và xã hội. Tổ chức tốt các phong trào, chương trình của Hội. Tăng cường phát hiện các nhân tố tích cực qua phong trào giới thiệu tham gia đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam các cấp sau khi hoàn thành chương trình đào tạo tại các trường.

          + Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam: xác định doanh nhân là một trong những lực lượng chủ lực trong sự nghiệp phát triển kinh tế, Hội tiếp tục tăng cường tập hợp, xây dựng lực lượng doanh nhân trẻ, gắn kết hoạt động doanh nhân trẻ với xây dựng phong trào của Hội, đồng thời đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả đối với yêu cầu phát triển doanh nghiệp và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đảm bảo tính định hướng, hỗ trợ kịp thời của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam các cấp với hoạt động của Hội Doanh nhân trẻ cùng cấp.

          + Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam: phát huy vai trò của Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam trong công tác tập hợp đoàn kết lực lượng thầy thuốc trẻ, chăm lo, hỗ trợ và phát huy lực lượng thầy thuốc trẻ trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, tập trung vào các hoạt động bao phủ chăm sóc sức khỏe ban đầu, tăng cường phối hợp với các tổ chức quốc tế uy tín trong nước và trên thế giới, phát huy vai trò phản biện của tổ chức Hội, tích cực phát hiện, bồi dưỡng và lan tỏa các điển hình tiên tiến.

          + Hội Trí thức, Khoa học và Công nghệ trẻ Việt Nam: củng cố hoạt động Hội ở cấp Trung ương, thành lập mới Hội tại địa phương. Tăng cường các hoạt động kết nối tri thức trẻ Việt Nam trong nước và ở nước ngoài qua các dự án, đề án, chương trình khoa học phục vụ cộng đồng, nhu cầu phát triển của từng địa phương, đất nước.

          + Câu lạc bộ Nghệ sỹ trẻ Việt Nam: củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Câu lạc bộ; đẩy mạnh tập hợp văn nghệ sỹ trẻ, chăm lo nhu cầu, nguyện vọng và quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của thanh niên hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; cổ vũ văn nghệ sĩ trẻ khẳng định bản thân, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, cống hiến vì cộng đồng; vận động các văn nghệ sĩ trẻ có nhiều ảnh hưởng đến thanh niên tuyên truyền, cổ vũ lối sống đẹp trong thanh niên.

          + Câu lạc bộ Thanh niên Khuyết tật Việt Nam: tổ chức các hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của thanh niên khuyết tật; hỗ trợ, tạo điều kiện để thanh niên khuyết tật có cơ hội khẳng định bản thân, vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Duy trì các hoạt động hiện có, tổ chức thêm các hoạt động mới để hỗ trợ, tập hợp thanh niên khuyết tật.

          - Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên Việt Nam ở nước ngoài và công tác quốc tế thanh niên

          + Tiếp tục chủ động tiếp cận, tập hợp lực lượng đông đảo thanh niên Việt Nam ở nước ngoài bằng các nội dung, phương thức phù hợp; hướng dẫn, hỗ trợ hoạt động và tạo tính thống nhất của các tổ chức Hội thanh niên, sinh viên Việt Nam ở nước ngoài.

          + Hỗ trợ các Hội thanh niên Việt Nam ở nước ngoài tổ chức các hoạt động nghiên cứu, học tập, rèn luyện, giao lưu, quảng bá văn hóa Việt Nam; phát huy tinh thần yêu nước hướng về Tổ quốc, cống hiến cho đất nước. Tăng cường thành lập, công nhận các tổ chức Hội Thanh niên Sinh viên Việt Nam ở nước ngoài, phấn đấu trong nhiệm kỳ, công nhận ít nhất 03 tổ chức Hội thanh niên, sinh viên Việt Nam ở nước ngoài trực thuộc Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam.

          + Triển khai các phương thức nắm tình hình và hỗ trợ thanh niên Việt Nam ở nước ngoài. Định kỳ tổ chức giao ban trực tuyến với Hội Thanh niên sinh viên Việt Nam ở nước ngoài. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về tình hình trong nước cho hội viên, thanh niên ở nước ngoài.

          + Chủ động tìm hiểu mô hình hoạt động, xu thế của thanh niên khu vực và thế giới, nghiên cứu vận dụng phù hợp điều kiện Việt Nam để tăng tính đa dạng, đổi mới hoạt động. Tổ chức các hoạt động giao lưu quốc tế đối với các tổ chức thanh niên chung đường biên giới, các nước trong khu vực và trên thế giới. Phối hợp với các tổ chức thanh niên quốc tế hợp pháp, phù hợp để tăng cường cơ hội giao lưu, hội nhập của thanh niên Việt Nam. Chủ động phối hợp với các tổ chức thanh niên của các nước láng giềng, trong khối ASEAN triển khai các chương trình phát triển, giao lưu thanh niên.

                                                                                                           Nguồn: thanhgiong.vn

II. Bài huấn thị của Bác Hồ tại Đại hội thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam ngày 15/10/1956

Ngày 15/10/1956, Bác Hồ đã đến dự và có bài nói chuyện với đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN VIệt Nam. Dưới đây là toàn văn bài Huấn thị của Bác:

Bác thân ái chúc:

Toàn thể thanh niên đoàn kết, phấn đấu, mạnh dạn, vui vẻ và tiến bộ không ngừng để giúp sức xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Bác nói chuyện về những kinh nghiệm trong thời kỳ thanh niên của Bác.

Kinh nghiệm thế giới:

Bác đã kinh qua hai cuộc chiến tranh thế giới. Trong cuộc Chiến tranh thứ nhất, dù kỹ thuật máy bay và xe tăng chưa phát triển mấy, nhưng các nước giao chiến cũng bị chết người hại của rất nhiều. Tám, chín năm sau, vẫn chưa khôi phục được tình hình trước chiến tranh.

Khi chiến tranh, thực dân Pháp bắt hàng vạn thanh niên ta đi lính đánh thay cho chúng. Số đông thanh niên ấy có đi mà không có về. Sau chiến tranh, thực dân Pháp thẳng tay bóc lột nhân dân ta để bù đắp những thiệt hại do chiến tranh đã gây ra cho Pháp. Chiến tranh đang kéo dài, thì cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga bùng nổ và thắng lợi.

Sau chiến tranh, bọn đế quốc ra sức bồi dưỡng lực lượng cho phát xít Đức, Ý‎, Nhật, nhằm đẩy chúng đánh bẹp Liên Xô. Không ngờ bọn phát xít quay đánh các nước đế quốc trước. Do đó mà có cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.

Hồi đó, các thứ vũ khí mới như máy bay, xe tăng đã phát triển nhiều, Mỹ đã bắt đầu dùng bom nguyên tử ở Nhật. Kết quả là hàng chục triệu người đã thiệt mạng, hàng nghìn thành thị và hàng vạn nông thôn bị phá tan tành. Trong cuộc Chiến tranh thứ hai này, thực dân Pháp lại bắt thanh niên ta làm bia đỡ đạn cho chúng, lại vơ vét đến cùng tài sản của nhân dân ta.

Trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới, tư bản Mỹ đã lợi dụng tình hình khó khăn của các nước để buôn bán làm giàu, nhất là bán vũ khí. Vì vậy, Mỹ đã trở nên tên trùm của phe đế quốc hiếu chiến.

Kinh nghiệm thứ nhất là: Chiến tranh chỉ đưa nhân dân thế giới đến chỗ chết chóc và bần cùng, cho nên nhân dân thế giới, nhất là thanh niên thế giới cần phải đoàn kết để chống lại chiến tranh, để gìn giữ hòa bình. Trong 40 năm qua, ngoài hai cuộc đại chiến, thế giới có những biến đổi rất to lớn. Trước đây 39 năm, trên thế giới chỉ có những nước tư bản và đế quốc thống trị những nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Từ năm 1917, cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công ở Nga, một phần sáu quả đất thoát khỏi tư bản và phong kiến, đã xây dựng một chế độ mới, một chế độ không có người bóc lột người. Nhưng hồi đó, chế độ xã hội chủ nghĩa mới xây dựng ở một nước rất cô đơn, lại bị quân đội của 14 nước đế quốc (đứng đầu là Mỹ, Anh, Pháp) tấn công. Nhờ nhân dân đoàn kết mà Liên Xô đã thắng lợi, bọn đế quốc đã thất bại.

Từ 10 năm lại đây, đại gia đình xã hội chủ nghĩa đã từ một nước tăng đến 13 nước, trong đó có cả nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chúng ta. Và từ 200 triệu nhân dân tăng đến hơn 900 triệu. 13 nước Á-Phi trước đây là thuộc địa hoặc nửa thuộc địa, nay đã được giải phóng thành những nước độc lập, tự do, trong đó có những nước to lớn như Trung Quốc, Ấn Độ,…Tất cả các nước trên đây đều ở trong phe hòa bình gồm 1.500 triệu nhân dân, tức là hơn một nửa số nhân dân trên thế giới, trong đó một phần lớn là thanh niên.

Kinh nghiệm thứ hai là: Chủ nghĩa đế quốc ngày càng suy yếu, lực lượng xã hội chủ nghĩa và hòa bình ngày càng mạnh thêm.

Kinh nghiệm trong nước:

Cách đây 12 năm, nước ta bị thực dân Pháp rồi đến đế quốc Nhật thống trị. Nhân dân ta bị áp bức, bóc lột, cực khổ và nhục nhã vô cùng. Hễ ai nói đến yêu nước, đoàn kết, tự do là bị chúng bắt cớ, tù đày, chém, giết, trẻ không tha già không từ. Trong mấy mươi năm đấu tranh cách mạng, nhiều thanh niên đã oanh liệt hy sinh.

Riêng về mặt văn hóa là cực kỳ quan hệ đến thanh niên, bọn đế quốc đã dùng chính sách ngu dân và đưa thanh niên vào chỗ đen tối. Khi chúng cần một số người để sai khiến thì chúng nhồi sọ thanh niên ta với một thứ giáo dục nô lệ. Chính người Pháp cũng đã nhận rằng: tiệm thuốc phiện nhiều hơn trường học. Thí dụ năm 1994 cả nước từ Bắc đến Nam chỉ có 534.600 học sinh tiểu học, 7.000 học sinh trung học cấp 2 và cấp 3 kể cả học sinh Miên, Lào, Pháp và Ấn Độ, 618 sinh viên đại học. Cả nước cộng lại chỉ có chừng 540.000 học sinh. Hơn 80% nhân dân ta mù chữ. Ngày nay, mặc dù chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, tài chính - khó khăn ấy do chế độ thực dân và mấy năm chiến tranh để lại - ở miền Bắc nước ta năm nay có : 750.000 học sinh tiểu học, chưa kể hơn 40 vạn trẻ em học vỡ lòng, 58.000 học sinh cấp 2, 6.500 học sinh cấp 3, 3.900 sinh viên đại học 11.000 học sinh chuyên nghiệp, cộng là 829.400. Chỉ sáu tháng đầu năm nay đã có hơn 42 vạn đồng bào thoát nạn mù chữ. Và cuối năm nay, toàn thể nhân dân ở nhiều xã và thành phố sẽ đều biết đọc, biết viết; thành tích tốt đẹp ấy một phần lớn là thành tích của thanh niên ta. Nếu không có chế độ phát xít Mỹ - Diệm ở miền Nam thì nhân dân ta nhất là thanh niên sẽ tiến bộ về mọi mặt nhiều hơn nữa và tốt đẹp hơn nữa.

Kinh nghiệm là: Miền Bắc nước ta đã từ một thuộc địa bị áp bức, bóc lột, nay đã hoàn toàn giải phóng, có một chế độ dân chủ cộng hòa. Nhân dân ta làm chủ đất nước ta. Nhiệm vụ của thanh niên ta là phải đoàn kết phấn đấu, ủng hộ chế độ của ta, hăng hái góp sức vào sự nghiệp thống nhất nước nhà.

Kinh nghiệm bản thân :

Hồi Bác thanh niên như các cháu, tình hình thế giới và tình hình trong nước rất đen tối như đã kể trên. Cho nên Bác và thanh niên hồi đó đều cùng bị áp bức, bóc lột như tất cả đồng bào khác. Đau lòng vì dân tộc bị nô lệ, Bác đã đi đến nhiều nước ngoài làm nhiều nghề để sống, sống để tìm con đường cách mạng. Lúc đã ngoài 25 tuổi, Bác còn chưa biết Đảng là gì, Đoàn là gì, phải tìm tòi lâu dần dần mới biết. Ngày nay, chẳng những thanh niên mà các cháu nhi đồng 9, 10 tuổi đều đã biết Đảng, biết Đoàn và hiểu biết nhiều công việc khác. Nhờ ảnh hưởng Cách mạng Tháng Mười và Cách mạng Trung Quốc, phong trào cách mạng nước ta tiến lên mạnh, Đảng và Đoàn thanh niên thành lập - lúc đó Bác đã hơn 35 tuổi. Trong mấy mươi năm, Đảng và Đoàn phải hoạt động bí mật. Địch khủng bố gắt gao và thường xuyên. Nhiều đồng chí đã hy sinh vẻ vang vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì cách mạng. Nhờ đường lối, chính sách của Đảng đúng, nhờ đảng viên và đoàn viên kiên quyết, dũng cảm và tin tưởng vững chắc, cho nên dù hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, nguy hiểm, dù nhiều đồng chí đã bị bắt bớ, hy sinh, Đảng và Đoàn vẫn phát triển ngày càng mạnh. Nhờ sự giáo dục, bồi dưỡng của Đảng và Đoàn nhiều chiến sĩ, anh hùng thanh niên đã nảy nở trong cuộc Cách mạng Tháng Tám, trong cuộc toàn dân kháng chiến và trong việc xây dựng nước nhà hiện nay.

Kinh nghiệm là: Nếu so với thanh niên lớp trước, trong đó có cả Bác, thì thanh niên ta ngày nay tiến bộ hơn nhiều, sung sướng hơn nhiều. Ngày nay, thanh niên là công dân của nước Việt Nam độc lập, tự do, có Đảng, có Đoàn của mình, có chính quyền, có Mặt trận, có quân đội của mình, là người chủ tương lai của nước nhà mình. Chính vì là người chủ tương lai, cho nên toàn thể thanh niên ta phải đoàn kết chặt chẽ, phấn đấu anh dũng, vượt mọi khó khăn, thi đua giúp sức vào sự nghiệp xây dựng một nước nhà tốt đẹp - một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh - để mình làm chủ mai sau. Tóm tắt kinh nghiệm của Bác là như thế.

Cuối cùng Bác chúc Đại hội thành công tốt đẹp và gửi lời thân ái chúc toàn thể thanh niên trong nước và thanh niên Việt kiều ở nước ngoài đoàn kết và tiến bộ.

 III. Công bố biểu trưng 65 năm Ngày truyền thống Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (15/10/1956 - 15/10/2021)

Logo được thiết kế theo một trong những biểu tượng quan trọng nhất của đất nước, đó là quốc kỳ, với bố cục chính là số 65 tượng trưng cho 65 năm ngày truyền thống Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.

 

Biểu trưng kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam

Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam vừa công bố biểu trưng (logo) kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (15/10/1956 - 15/10/2021).

Ban tổ chức cho biết logo được thiết kế theo một trong những biểu tượng quan trọng của đất nước đó là quốc kỳ. Mang trong mình năng lượng của tuổi trẻ, thế hệ thanh niên Việt Nam luôn tự hào là lá cờ tiên phong trong mọi hoạt động, sẵn sàng đương đầu với những khó khăn, thử thách, bởi thanh niên luôn mang trong mình sự đổi mới, sáng tạo và không ngừng học hỏi.

Lá cờ Tổ quốc là lời nhắc nhở cho đích đến của những người thanh niên về trách nhiệm của bản thân với đất nước, với trọng trách, vai trò là người kế thừa, phát huy truyền thống quý báu của cha ông trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp và văn minh.

Bố cục chính của logo là số 65 tượng trưng cho 65 năm ngày truyền thống Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Nổi bật trên nền màu xanh thanh niên mang đầy sức trẻ là lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ tiên phong, cổ vũ thanh niên Việt Nam hãy không ngừng sáng tạo và học tập, vượt qua những giới hạn vô hình để vươn lên làm chủ và chinh phục tương lai.

Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đề nghị Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam các tỉnh, thành phố, đơn vị trực thuộc chỉ đạo các cấp bộ Hội thống nhất sử dụng mẫu logo này trong tất cả các ấn phẩm truyền thông để bảo đảm sự đồng bộ, lan tỏa và tính trang trọng theo đúng quy định.

Các cấp bộ Hội triển khai các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống; tổ chức cho cán bộ, hội viên, thanh niên tìm hiểu, nghiên cứu bài huấn thị của Bác Hồ tại Đại hội thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam ngày 15/10/1956 bằng các hình thức như trực tuyến, xây dựng infographic, sử dụng trang tin điện tử, mạng xã hội...

Nguồn: thanhnien.vn/

 

  TUYÊN TRUYỀN MỘ SỐ NGÀY KỶ NIỆM KHÁC TRONG THÁNG 10/2021

 

1. Kỷ niệm 67 năm ngày giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2021)

            67 năm về trước, ngày 10/10/1954, hàng vạn người dân Hà Nội vỡ òa trong niềm vui đón đoàn quân chiến thắng trở về, giải phóng Thủ đô. Nhìn lại quá trình phát triển của Thành phố từ mốc son rực rỡ này, càng thấy rõ điểm tựa để Hà Nội phát triển như hôm nay chính là tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường không bao giờ lùi bước trước khó khăn của các thế hệ cán bộ, nhân dân Thủ đô Hà Nội.

 

Chưa đầy 1 tháng sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thực dân Pháp với dã tâm cướp nước ta một lần nữa đã gây hấn và phát động chiến tranh ra cả nước. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Hà Nội đã “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

          Sau cuộc trường chinh 9 năm cả nước kháng chiến gian khổ, nhưng vô cùng vinh quang, Hà Nội đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Geneve ngày 20/7/1954, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.

          16h ngày 9/10/1954, những tên lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Long Biên. Sáng 10/10/1954, Ủy ban Quân chính Thành phố và các đơn vị quân đội chia làm nhiều cánh quân lớn ca khúc khải hoàn tiến vào trung tâm Hà Nội. Hàng vạn người dân Hà Nội trong niềm vui sướng vỡ òa, đổ ra đường chào đón đoàn quân chiến thắng. Thăng Long - Hà Nội có thêm một mốc son rạng rỡ trong lịch sử ngàn năm đầy tự hào.

Ngay trong những ngày đầu tiên trở về Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở Đảng bộ và nhân dân Thủ đô: “Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới nhìn vào Thủ đô ta. Tất cả chúng ta phải ra sức giữ gìn trật tự an ninh, làm cho Thủ đô ta bình yên, tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và tinh thần”.

          Thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch, 67 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô đã ngày càng khẳng định vai trò, vị trí trung tâm, trái tim của cả nước.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàng chục vạn người con Thủ đô lên đường tòng quân chiến đấu khắp các chiến trường. Nơi hậu phương, Hà Nội trở thành một trung tâm kinh tế lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chi viện cho tiền tuyến với phương châm “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Không chỉ vậy, Hà Nội đã cùng các quân, binh chủng và các địa phương, đặc biệt dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Trung ương Đảng, làm nên một “Điện Biên Phủ trên không” mùa Đông năm 1972. “Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người” đã buộc Chính phủ Mỹ phải quay lại bàn đàm phán và ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đây là tiền đề quan trọng để cả nước làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, thu non sông về một mối.

Vượt qua những khó khăn, gian khổ thời kỳ bao cấp, Hà Nội đã đi đầu nắm bắt và triển khai quyết sách mới của Đảng, cùng cả nước tạo nên những thành tựu có ý nghĩa lịch sử trong hơn 30 năm đổi mới.

          Đặc biệt, ngày 1/8/2008 đánh dấu mốc son lịch sử mới, mở ra thời kỳ phát triển giàu tiềm năng của Hà Nội. Thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội khóa XII, Thành phố chính thức hợp nhất với tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình).

          Trong những năm qua, Thủ đô Hà Nội tiếp tục gương mẫu đi đầu trên mọi lĩnh vực, đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần to lớn vào sự phát triển chung của cả nước. Kinh tế Thủ đô xứng đáng giữ vị trí đầu tàu và là động lực phát triển của Vùng Thủ đô, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

                                                                                            Nguồn: daidoanket.vn 

2. Kỷ niệm 91 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930- 14/10/2021)

          Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và thanh niên cách mạng đồng chí hội, cuối năm 1926 đầu năm 1927, một số địa phương hình thành “Nông Hội Đỏ” chỉ đạo cuộc nổi dậy của nông dân đấu tranh chống thực dân, địa chủ phong kiến và tư sản, đòi quyền dân sinh dân chủ; tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nông dân Cao Lãnh, Sa Đéc, Gia Định, Đức 

Phổ, Duyên Hà, Tiền Hải…. đi tới đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Ngay từ khi thành lập, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục, tổ chức, động viên đưa quần chúng ra đấu tranh chính trị và xây dựng đội quân chính trị quần chúng cách mạng. Tại kỳ họp ban chấp hành Trung Ương Đảng lần I (khoá I) từ 14/10 đến cuối tháng 10 năm 1930, “Nông hội đỏ” chính thức ra đời. Sự kiện thành lập Nông hôi đỏ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng về chất của giai cấp nông dân Việt Nam. Lần đầu tiên đưa gia cấp nông dân có. đoàn thể cách mạng của mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
          Để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, tổ chức Hội nông dân Việt Nam liên tục phát triển dưới nhiều hình thức và tên gọi phù hợp: “Hội tương tê ái hữu”, “Hội nông dân phản đế”, “Hội nông dân cứu quốc”, trở thành một thành viên chủ lực của mặt trận Việt Minh, là lực lượng nòng cốt và đông đảo nhất tham gia khởi nghĩa tháng tám1945.
          Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tổ chức Hội được duy trì và liên tục phát triển. Hội nông dân giải phóng Miền Nam được thành lập, là thành viên quan trọng của mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, tham gia các phong trào cách mạng: đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận; xây dựng hậu phương chiến đấu tại chỗ…., góp phần làm thất bại mọi âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ. Ở miền Bắc, hội nông dân tập thể đã vận động nông dân đi theo con đường hợp tác hoá: vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ hậu phương, chi viện sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam -

thành đồng tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.

          Chiến thắng mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bước vào thời kỳ mới, nông dân 2 miền Nam Bắc sát cánh cùng toàn dân đi tiếp con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn; nhiệt tình tham gia xây dựng tổ chức của giai cấp nông dân - hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam từng bước lớn mạnh. Ngày 1/3/1988, hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam 

được đổi tên là hội nông dân Việt Nam.

          Đại hội đại biểu toàn quốc lần I hội nông dân Việt Nam họp từ ngày 28 đến ngày 29/3/1988 tại Hà Nội, là một cột móc quan trọng, một bước ngoặc có ý nghĩa lịch sử trong sự phát triển của phong trào nông dân: Hội nông dân Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân được chính thức thành lập, có hệ thống từ Trung Ương đến cơ sở; khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng ta về vai trò, vị trí của giai cấp công nông dân và hội nông dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời đề ra những mục tiêu, nội dung hoạt động của Hội, thực hiện đường lối mới của Đảng.

                                                                                         Nguồn: lichsuvietnam.vn

3. Kỷ niệm 91 năm công tác dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2021)

          * Sự ra đời và ý nghĩa của ngày 15/10

          Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, từ ngày 14 đến ngày 31-10/1930, tại Hương Cảng, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất đã thông qua Luận cương Chính trị, Điều lệ Đảng và các Án nghị quyết về: Công nhân vận động, Nông dân vận động, Cộng sản Thanh niên vận động, Phụ nữ vận động, Quân đội vận, Vấn đề cứu tế và Hội phản đế đồng minh. Trong Nghị quyết của Trung ương chỉ rõ: "Trong các Đảng bộ, (từ Thành ủy và Tỉnh ủy) phải tổ chức ra các Ban chuyên môn về giới vận động". Từ tháng 10/1930, hệ thống Ban chuyên môn về các giới vận động của Đảng bao gồm: công vận, nông vận, thanh vận, phụ vận, quân đội vận, Mặt trận phản đế được ra đời làm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp lực lượng, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

          - Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận” đăng trên Báo Sự thật số ra ngày 15/10/1949. Nội dung bài báo được coi là “Cương lĩnh công tác dân vận” của Đảng. Chính vì vậy, vào tháng 10/1999, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận” và trên cơ sở sự ra đời của hệ thống Ban chuyên môn về các giới vận động của Đảng, theo đề nghị của Ban Dân vận Trung ương, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đồng ý lấy ngày 15/10/1930 là ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng và quyết định lấy ngày 15/10 hằng năm là “Ngày Dân vận của cả nước” để cùng nhau học tập và thực hiện những lời Bác Hồ dạy về công tác dân vận.

          Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân đã trở thành một truyền thống tốt đẹp và là nguồn sức mạnh của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay. Đảng ta luôn xác định: Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong điều kiện hội nhập quốc tế càng đòi hỏi phải phát huy cao độ khối đoàn kết và sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện thành công công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

          * Những chặng đường lịch sử công tác dân vận của Đảng

          - Công tác dân vận trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945):

          Ngay sau khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng tổ chức ra các đoàn thể cách mạng, hình thành bộ máy và cán bộ làm công tác dân vận. Xuất phát từ tình hình thực tế của nước ta lúc bấy giờ là nước thuộc địa nửa phong kiến, lại là nước nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng đã tổ chức cho các đảng viên đi vào các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tuyên truyền vận động, tổ chức và tập hợp quần chúng nhân dân, huấn luyện họ đấu tranh chống áp bức, bất công, bóc lột đòi dân sinh, dân chủ ở khắp mọi nơi. Những cán bộ, đảng viên lớp đầu tiên của Đảng đã không quản gian lao, thực hiện chủ trương "vô sản hóa", tiến hành "ba cùng" với dân, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân lao động và thành lập các tổ chức quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng, tạo sức mạnh và động lực cho cách mạng theo tư tưởng của Bác Hồ: "Đem sức ta mà giải phóng cho ta. Sau cao trào cách mạng (1930-1931), đến thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939), phong trào Phản đế (1939-1941) và phong trào Mặt trận Việt Minh (1941-1945), Đảng ta chủ chương mở rộng chính sách đại đoàn kết toàn dân và công tác Mặt trận. Quần chúng được tập hợp qua các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp. Đảng đã tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, bao gồm nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc và cả ngoại kiều… đây thực sự là bước phát triển mới trong việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng.

          Đứng trước tình hình thế giới và trong nước có những biến động lớn, Đảng ta đề ra chủ trương phát động cao trào quần chúng chống Nhật - Pháp, gấp rút tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền; với khí thế của cả dân tộc bằng bạo lực chính trị, kết hợp với lực lượng vũ trang toàn dân đã đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh đường lối cách mạng của Đảng là đúng đắn; đó cũng là thắng lợi của nghệ thuật vận động quần chúng; Đảng biết dựa vào dân, tin ở dân, gắn bó với dân, tuyên truyền giác ngộ nhân dân, tổ chức tập hợp và hướng dẫn quần chúng nhân dân đấu tranh giành chính quyền.

          - Công tác dân vận trong 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945 - 1975):

          Trong suốt 30 năm liên tục (1945-1975) của hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, bằng niềm tin và sức mạnh toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận đã góp phần tuyên truyền, vận động, tổ chức những phong trào cách mạng rộng lớn, động viên sức người, sức của, huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, nhân dân ta viết nên những trang sử hào hùng.

          Trong những năm kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng ta đã tổ chức, rèn luyện và hình thành một đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận luôn gắn bó máu thịt với nhân dân ở khắp mọi miền của đất nước. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã chịu đựng hy sinh gian khổ, kiên cường bám dân để thực hiện xuất sắc nhiệm vụ Đảng giao cho. Nhân dân tin tưởng và che chở cho cán bộ khi bị địch truy lùng, chăm sóc chạy chữa khi đau yếu, móc nối khi mất liên lạc và đùm bọc, chia ngọt sẻ bùi như con em trong gia đình. Trong những năm tháng đó, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, các phong trào "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Năm xung phong"... đã rầm rộ phát triển, tạo nên bầu nhiệt huyết cách mạng sôi động trong nhân dân cả nước, tất cả vì sự nghiệp độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Công tác dân vận đã góp phần củng cố niềm tin tuyệt đối của nhân dân đối với Đảng, Bác Hồ với tấm lòng son sắt và thủy chung, không gì lay chuyển được.

          Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thắng lợi của đường lối mở rộng đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Đó là sự thành công của việc xây dựng lực lượng chính trị ngày càng rộng rãi trong mặt trận và các đoàn thể, trong lực lượng vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí Minh; “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân..."; phát huy tới mức cao nhất về lực lượng, trí tuệ và của cải tạo thành sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

          - Công tác dân vận trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN:

          Khi cả nước bước vào thời kỳ mới, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước những thuận lợi và khó khăn mới, Đảng ta động viên nhân dân cả nước nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành công cuộc đổi mới, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

          Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, công tác dân vận đã hướng vào vận động các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, đã đóng góp quan trọng vào các thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước trên tất cả các lĩnh vực.

          Trong giai đoạn này, công tác dân vận của Đảng càng được khẳng định rõ nét cả về lý luận và thực tiễn. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”; phải đặc biệt chăm lo củng cố mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Nghị quyết 08B của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Đây là sự tổng kết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc về công tác vận động quần chúng của Đảng. Nghị quyết 08B nêu lên 4 quan điểm chỉ đạo công tác quần chúng của Đảng, đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, bốn quan điểm này còn mang tính chiến lược đối với công tác dân vận của Đảng trong những giai đoạn tiếp theo của cách mạng, đó là: (1) Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; (2) Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân; (3) Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; (4) Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.

          Tại Đại hội VII, Đảng ta xác định phải xây dựng cơ chế để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Sau đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Chính phủ ra các nghị định thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg về tăng cường công tác dân vận trong các cơ quan nhà nước...

          Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ công tác vận động quần chúng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã ban hành các nghị quyết về: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; “về Công tác dân tộc”; về “Công tác tôn giáo”. Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX đã cụ thể hoá một bước quan điểm, tư tưởng Đại hội IX của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với nội dung và chất lượng mới, chỉ đạo công tác vận động quần chúng trong thời kỳ mới.

          Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định quan điểm về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”.

          Bộ Chính trị khóa X đã ra Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25/02/2010 về việc ban hành "Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị" một lần nữa khẳng định: “Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng  bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”; đồng thời, xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo và thực hiện công tác dân vận của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của mọi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện công tác dân vận. Có thể nói, đây là văn bản đầu tiên của Đảng có tính chế định về chế độ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác dân vận trong hệ thống chính trị nước ta.

          Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” xác định mục tiêu: Củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nội dung Nghị quyết là những nhận thức mới về công tác dân vận và các nhiệm vụ, giải pháp đặt ra có tính chất đột phá, khả thi trong tổ chức thực hiện, trong đó nhấn mạnh: Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh và phân vai, gắn trách nhiệm rất rõ: Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt trong thực hiện công tác dân vận.

          Sau đó, ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị ban hành 2 quyết định quan trọng: Quyết định số 217-QĐ/TW về việc ban hành "Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội"; Quyết định số 218-QĐ/TW về ban hành "Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền" là bước đột phá mới về phát huy dân chủ nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.

          Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”. Cụ thể hóa Nghị quyết XII của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác dân vận và liên quan đến công tác dân vận, điển hình là: Ban Bí thư ban hành Kết luận số 43-KL/TW, ngày 07/01/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”; Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 16/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới”…

          Trong giai đoạn này, công tác dân vận tiếp tục được đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả, đi vào chiều sâu, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng - Nhà nước với nhân dân, tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị, nhất là của các cấp ủy đảng, chính quyền và người đứng đầu các cấp; Tăng cường thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng liên quan đến công tác dân vận, cuộc sống của nhân dân; tăng cường công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, nhất là trong giải quyết các vấn đề liên quan đến người dân; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng thiết thực, cụ thể, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chú trọng công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, trong đó có phong trào thi đua “Dân vận khéo”; Phát huy dân chủ, nhất là vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

                                                                                                   Nguồn: danvan.vn

         

4. Kỷ niệm 91 năm ngày phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2021)

          Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ Việt Nam đã trở thành lực lượng lao động chính.  Bên cạnh đó, nước ta luôn luôn bị kẻ thù xâm lược, đời sống nghèo khổ. Từ thực tế đó mà người phụ nữ Việt Nam có bản sắc phong cách riêng.Họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm, là người lao động cần cù, sáng tạo, thông minh, là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc.

 

          Ngoài ra, họ còn là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng. Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ Việt Nam là lớp người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nhất nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ Việt Nam đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, còn có nhiều phụ nữ nổi tiếng tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai.

          Từ năm 1927 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông đảo tầng lớp phụ nữ Việt Nam như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ.

          Năm 1927 nhóm các chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng, Nguyễn Thị Thủy là ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, các chị tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề đăng ten và học chữ.

           Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Nguyễn Thị Hồng, Huỳnh Thuyên tham gia sinh hoạt ở trường nữ học Đồng Khánh.

          Năm 1928, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị An tham gia sinh hoạt hội đỏ của Tân Việt. Nhóm này liên hệ với chị Xân, chị Thiu, chị Nhuận, chị Liên thành lập tờ Phụ nữ Giải phóng ở Vinh.

          Năm 1930, trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, ở Nghệ An, Hà Tĩnh có 12.946 chị tham gia phụ nữ giải phóng, cùng nhân dân đấu tranh thành lập chính quyền Xô Viết ở trên 300 xã.

          Ngày 1/5/1930, chị  Nguyễn Thị Thập đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của hơn 4.000 nông dân ở hai huyện Châu Thành, Mỹ Tho, trong đó có hàng ngàn phụ nữ tham gia.

          Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi: "Nam nữ bình quyền". Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ Việt Nam là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ.

          Đảng đặt ra mục tiêu, phụ nữ Việt Nam phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội, nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng.

          Chính vì vậy mà ngày 20/10/1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ chính thức được thành lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối với vai trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.

          Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng năm làm ngày truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỉ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày Phụ nữ Việt Nam".

          Vào ngày 20 tháng 10 năm 1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay đổi tên là Hội Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập, để đánh dấu sự kiện này.

          Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng năm làm ngày truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỉ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày Phụ nữ Việt Nam".

                                                                                                                          Nguồn: vtc.vn

5. Cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tên khai sinh Võ Giáp, bí danh là Văn, sinh ngày 25/8/1911 ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho nghèo, giàu lòng yêu nước.

Từ năm 1925 đến 1926, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào học sinh ở Huế, năm 1927 tham gia Đảng Tân Việt cách mạng (một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam); năm 1930, bị địch bắt và kết án 2 năm tù. Sau khi ra tù, đồng chí tiếp tục hoạt động tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh; năm 1936, hoạt động trong phong trào dân chủ bán hợp pháp của Đảng ở Hà Nội; là biên tập viên báo của Đảng như: "Tiếng nói của chúng ta", "Tiến lên", "Tập hợp", "Thời báo", "Tin tức"...; tham gia phong trào Đông Dương đại hội; được bầu làm Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ.

Đồng chí Võ Nguyên Giáp (đứng hàng thứ 2 từ trên xuống, từ trái qua, người thứ 4) cùng một số sinh viên trường Luật ở Hà Nội năm 1937. Ảnh tư liệu BTLSQG

 

Tháng 6/1940, đồng chí Võ Nguyên Giáp được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử sang Trung Quốc gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Đầu năm 1941, đồng chí về nước, tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng; năm 1942, phụ trách Ban xung phong Nam tiến, tuyên truyền giác ngộ Nhân dân, tổ chức con đường quần chúng từ Cao Bằng về Thái Nguyên.

Tháng 12/1944, đồng chí được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 4/1945, tại Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, đồng chí được cử vào Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Từ tháng 5/1945, đồng chí là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân; tháng 6/1945, được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng Việt Bắc.

Tháng 8/1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương cử vào Ban Chấp hành Trung ương và là Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, đồng chí được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam; là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và được bổ sung vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Quốc hội lập tháng 11-1946. Trong ảnh Đ.c Võ Nguyên Giáp đứng hàng thứ 2, vị trí thứ 2 từ phải sang. Ảnh tư liệu BTLSQG

 

Tháng 1/1946, đồng chí được bầu là đại biểu Quốc hội khóa I; tháng 3/1946, là Chủ tịch Quân sự ủy viên Hội, Ủy viên trong Chính phủ Liên hiệp; khi thành lập Quân ủy Trung ương, được cử làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Tháng 10/1946, đồng chí là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam (Đồng chí làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng từ 10/1946 - 8/1947; 8/1948 - 12/1979).

Tháng 1/1948, đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1979, đồng chí là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương.

Từ tháng 1/1980, đồng chí là Phó Thủ tướng thường trực; từ tháng 4/1981 đến tháng 12/1986, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ).

Đại tướng Võ Nguyên Giáp-vị tướng huyền thoại của đất nước, của nhân dân Việt Nam. Ảnh tư liệu BTLSQG

 

 

Đồng chí liên tục được bầu làm Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.

Đồng chí từ trần vào lúc 18 giờ 9 phút ngày 04/10/2013 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108; hưởng thọ 103 tuổi.

Do công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

Nguồn: baohaiquanvietnam.vn

6. Đường Hồ Chí Minh trên biển - tầm nhìn chiến lược của Đảng ta

QĐND- LTS: Nhân kỷ niệm 60 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23-10-1961/ 23-10-2021), bắt đầu từ số báo hômnay,Báo Quân đội nhân dân mở chuyên mục về sự kiện này. Chuyên mục bao gồm những bài viết khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong quyết định mở tuyến đường chiến lược trên biển; những chiến công, thành tích vẻ vang và câu chuyện, kỷ niệm sâu sắc của bộ đội và nhân dân ta...Qua đó,tiếp tục tôn vinh và tri âncông lao, đóng góp to lớn của các anh hùng, liệt sĩ, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ “Đoàn tàu không số”, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chốngMỹ, cứunước, giải phóng miền Nam, thống nhất đấ tnước. Báo Quân đội nhân dân trân trọng kính mời sự cộng tác, góp ý cho chuyên mục của các cộng tác viênv à bạnđọc. Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cùng với tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ, ngày 23-10-1961, Bộ Chính trị vàQuân ủy Trung ương quyết định thành lập Đoàn vận tải quân sự 759, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra bước phát triển mới của tuyến vận tải chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đường Hồ Chí Minh trên biển là conđường vận tải bímật, bất ngờ, có ưu thế về thời gian, hiệu quả và khả năng vận chuyển sâu vào các chiến trường miền Nam-sự sáng tạo độc đáo, đặc sắc, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tài thao lược của Đảng và Bác Hồ. Đây là nét đặc sắc trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng, kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc của ông cha ta trong thời đại Hồ Chí Minh.

 Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

 Đầu năm 1961, Thường trực Quân ủy Trung ương xác định: “Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam đã bước vào một giai đoạn mới và ngày càng trở nên gay go, quyết liệt... Muốn đẩy mạnh cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi quyết định cần phải kiên quyết chi viện cho miềnNam những thứ mà chiến tranh cần thiết...”. Thường trực Quân uỷ Trung ương cũng chỉ rõ biện pháp tiến hành trong vận tải đường thủy là dùng phương tiện từ miền Bắc chở hàng vàomiềnNam,hoặc từ miền Nam ra miền Bắc chở hàng vào; có thểdùng biện pháp từ trong miềnNam ra, kết hợp từ ngoài miền Bắc đưa hàng vào, gặp nhau chuyển hàng giữa đường... Như vậy, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ vận tải đường biển chi viện cho cách mạng miền Nam là nhiệm vụ chiến lược, có tínhlâudài. Tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc mở tuyến đường vận tảitrên biển đúng thời cơ; quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc; phương pháp vận chuyển “độc nhất vô nhị” trong lịch sử chiến tranh thế giới. Đường Hồ Chí Minh trên biển ra đời vào thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong khi địch được trang bị các loại vũ khí, phương tiện hiện đại,tốitân, chúng ta chỉ có những loại tàu, thuyền nhỏ bé, thô sơ, sử dụng tàu giả dạng vận tải, tàu đánh cá; kết hợp hoạt động bí mật và công khai;tàu có thể xuất pháttừ nhiều bến đi (kể cả ở nước ngòai) và cập nhiều bến đến; dẫn tàu đi trên nhiều tuyến đường khác nhau, có giai đoạn đi vòng ra biển xa, vùng biển quốc tế. Do vị trí chiến lược hết sức quan trọng của Đường Hồ Chí Minh trên biển, đế quốc Mỹ dùng mọithủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với các loại vũ khí, thiết bị tối tân hiện đại nhất để đánh phá, hòng hủy diệt, ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường tiếp viện của ta trênbiển. Những con đường, các bến bãi đều nằm trong các vùng kìm kẹp, lùng sục, truy quét, đánh phá ác liệt suốt đêm ngày của địch. Song khi địch phong tỏa đường trong thìta đi đường ngoài, địch ngăn chặn đường dàita đi phân đoạn; địch bám đuôi, ta đi thẳng ra vùng biển quốc tế; khi địch phát hiện, áp sát tấn công hoặc cướp tàu, ta đánh trả quyết liệt, có lúc phải phá hủy tàu và hàng để giữ bí mật nhiệm vụ và con đường. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã làm cho đối phương kinh ngạc, bất ngờ và không thể tưởng tượng được về sự có mặt, quy mô, sự dũng cảm và tính sáng tạo của những con tàu và những con người thamgia

  Đường Hồ Chí Minh trên biển góp phần chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

 Thành công của những chuyến vũ khí đã trực tiếp góp phần đẩy mạnh chiến tranh nhândân, xâydựng vàpháttriểnkhối chủlực ở chiếntrườngNamBộ, cựcNam Trung Bộ; góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài... Có thể thấy, hiệu quả vận chuyển của tuyến chi viện chiến lược biển đã tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp trên tất cả các vùng chiến lược, các địa bàn chiến lược ở miền Nam. Đặc biệt, sự xuất hiện kịp thời những vũ khí tương đối hiện đại, có tính năng chiến đấu cao đã góp phần làm thay đổi cách đánh của quân và dân ta, thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch. Bối cảnh bấy giờ, nhiều tờ báo ở Mỹ khẳng định:“Cộng sản Bắc Việt có những đội thuyền viên lão luyện, vượt xa hải quân Việt Nam Cộng hòa hai mươi năm. Họ có thể điều khiển tàu đi trong bất luận thời tiết nào, địa hình nào”. Đường Hồ Chí Minh trên biển bảo đảm tuyến chi viện chiến lược trên biển nhanh hơn, kịp thời hơn, vũ khí, trang bị đồng bộ, đạt hiệu quả cao và có thể vận chuyển được những loại hàng “đặc biệt”. Nếu như vận chuyển đường bộ phải qua nhiều cung, chặng, dùng lực lượng, phương tiện trong thời gian hàng tháng trời mới đến đích, thì vận chuyển bằng đường biển tuy gian nan, nguy hiểm, nhưng nếu vượt qua sự ngăn chặn của địch thì chỉ khoảng 5-6 ngày đã vào tới chiến trường Tây Nam Bộ.

  Đường Hồ Chí Minh trên biển là biểu tượng sức mạnh của chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện lấy sức mình là chính.

 Bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước, hành trang-vũ khí sắc bén của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh chính là niềm tin sắt son vào sự nghiệp cách mạng do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Được dẫn dắt bởi đường lối kháng chiến đúng đắn, ý chí, nghị lực, quyết tâm trong mỗi con người, mỗi tập thể, mỗi lực lượng, thực sự là thứ vũ khí tinh thần có ý nghĩa quyết định thành bại trên mỗi trận tuyến chống quân thù. Không có bản lĩnh chính trị vững vàng thì không thể thực hiện được nhiệm vụ gian khó đặt ra. Do vị trí chiến lược quan trọng của Đường Hồ Chí Minh trên biển, đế quốc Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để đánh phá, hòng hủy diệt, ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường chi viện của ta. Những con đường, bến bãi đều nằm trong các vùng kìm kẹp,lùng sục,truy quét, đánh phá ác liệt suốt đêm ngày của địch. Trên con đường vận chuyển ấy, cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số với tinh thần “vì miền Nam ruột thịt” đã xác định quyết tâm, sẵn sàng hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ-biếtrằng ra đi là cảm tử, vẫn chấp nhận gian nguy, đương đầu với khó khăn thử thách. Thời đại Hồ Chí Minh đã tạo ra con người Việt Nam mới và chính conngườiViệtNamđã viếtnênnhững trang sửhào hùng của thời đạiHồChíMinh.

 Đường Hồ Chí Minh trên biển là niềm tự hào của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân chủng Hải quân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

  Nói tới Đường Hồ Chí Minh trên biển phải nhắc tới các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Đoàn tàuKhông số luôn luôn trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, luôn nêu cao ý chí quật cường, tinh thần mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng xả thân chiến đấu hy sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trên những chuyến “tàu không số”, nhiều cán bộ chỉ huy, thuyền trưởng, chính trị viên,thuyền phó đã xử trí tài tình, mưu trí, điều khiển con tàu giữ vững hành trình vào miền Nam và đối phó linh hoạt với các tình huống xảy ra. Huyền thoại về con đường vận tải biển mang tên Chủ tịchHồChí Minh vẫn còn vẹn nguyên với thời gian, mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cáchmạng,một thiên anh hùng ca bất tử.Trong giai đoạn cách mạng mới, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc, vừa thuận lợi, vừa có những thách thức mới.Xu thế toàn cầu hóa đang tác động toàn diện trên bình diện quốc tế, đồng thời đặtra yêu cầu khách quan cho mỗi quốc gia. Phát phát huy giá trị của Đường Hồ Chí Minh trên biển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân sẽ sẽ kế tục, phát huy, hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổquốc trong tình hình mới.

Đại tá, TS BÙI QUANG HUY - Khoa Nhà nước và Pháp luật, Trường Sĩ quan Chínhtrị Nguồn:Quân đội nhân dân

7. Cuộc đấu tranh Lưu huyết tại Ngục Kon Tum.

Nhà ngục Kon Tum (ảnh: Phi Em)
Nhà ngục Kon Tum.

 

Nhà lao Kon Tum…
Nhà lao Kon Tum (Lao trong), được xây dựng từ khoảng năm 1915-1917,  khi thực dân Pháp đã thiết lập được bộ máy cai trị ở tỉnh Kon Tum. Lao nằm bên bờ sông Đăk Bla, cách quốc lộ 14 khoảng 1km về phía Tây, gần với Toà làm việc của Công sứ Pháp, của Giám binh, trụ sở Quản đạo và Trại lính bảo an. Tháng 3-1931, Pháp tiếp tục xây dựng thêm nhà lao thứ hai (Lao ngoài), nhằm mục đích giam giữ tù nhân làm việc khổ sai trên công trường Đăk Pao, Đăk Pét về trong 6 mùa mưa, nên có tính chất tạm bợ hơn.
Nhà lao Kon Tum ban đầu chỉ giam giữ những người bị thực dân Pháp quy vào tội chống đối hoặc vi phạm cái mà chúng xem là “pháp luật” của chúng. Từ cuối năm 1929 đến năm 1930, có 02 tù chính trị bị đưa lên giam giữ tại đây là đồng chí Đồng Sỹ Bình và đồng chí Ngô Đức Đệ (người lập ra chi bộ Binh-chi bộ Đảng đầu tiên ở tỉnh Kon Tum). Sau thất bại của phong trào 1930-1931, thực dân Pháp đã đàn áp, bắt bớ hàng loạt chiến sỹ Cộng sản và quần chúng giác ngộ theo phong trào đem lên giam giữ ở Kon Tum. Mục đích của chúng là giải quyết tình trạng quá tải trong nhà lao ở các tỉnh đồng bằng miền Trung; mặt khác, chúng muốn bóc lột sức lao động của tù nhân để làm con đường 14 phục vụ cho chính sách xâm lược, cai trị của chúng. Thâm độc hơn nữa, thực dân Pháp còn muốn lợi dụng nơi rừng thiêng nước độc, vùng xa xôi hẻo lánh để cách ly tư tưởng cộng sản, đồng thời giết dần, giết mòn những người tù chính trị mà không sợ mang tai tiếng, dư luận. Tại nhà lao Kon Tum từ năm 1930-1933, thực dân Pháp đã giam cầm, đày ải trên 500 lượt tù chính trị, nó đã biến nhà lao Kon Tum từ nhà lao cấp tỉnh trở thành một bộ phận nhà đày xứ Trung kỳ thời bấy giờ.
…và những tội ác của thực dân, tay sai
Lớp tù chính trị đầu tiên gồm 150 người bị thực dân Pháp đày từ nhà lao Kon Tum đi làm đường Đăk Pao, Đăk Pét. Chặng đường đi bộ trên trăm cây số, đó là thử thách không hề nhỏ đối với những người tù chính trị vốn đã bị bọn thực dân, tay sai hành hạ, vắt sức. Không chỉ dừng lại ở đó, trên lộ trình đi khổ sai, người tù còn phải mang vác hành lý nặng; roi da, gậy hèo và báng súng là những công cụ được lính sử dụng thường xuyên để đánh đập trên suốt chặng đường. Nhiều người tù già yếu hoặc đau bệnh …theo không kịp đoàn, chúng đánh đập tàn nhẫn, thậm chí có người phải bỏ mạng trên đường đi.
Trong 6 tháng mùa khô trên công trường Đăk Pao, Đăk Pét, tù nhân phải lao động nặng nhọc trên 10 giờ đồng hồ mỗi ngày, dưới mọi thời tiết, đầu không có nón đội, mình không có mãnh che mưa. Ngày đã không có thời gian nghỉ ngơi, tối đến, giấc ngủ cũng chẳng đầy bởi sự hành hạ của binh lính và tiếng rên la thảm thiết của những người tù đau ốm. Chế độ ăn uống vô cùng kham khổ. Cơm lẫn nhiều trấu sạn; mắm muối đầy dòi bọ; nước uống cũng chỉ là thứ nước múc từ khe, suối bẩn đục, đầy lá rừng và phân thú hôi tanh. Không chỉ mỗi điều kiện làm việc, ăn ở, những người tù chính trị nơi đây hàng ngày còn phải chịu sự hành hạ vô cùng dã man của bọn thực dân, tay sai vô nhân tính. Chúng đánh đập, hành hạ tù nhân bất cứ lúc nào, với hàng ngàn lý do. Roi da, gậy hèo và báng súng đã trở thành nổi ám ảnh của những người tù chính trị. Chúng đánh đập tù nhân ngay từ sáng sớm, vào lúc điểm danh, trong lúc đang lao động, lúc ăn cơm, tiểu tiện và cả lúc đi ngủ... Tàn ác hơn, chúng thường xuyên lấy tù nhân ra làm trò đùa, mua vui với những hành vi hết sức man rợ: Chúng bắt tù nhân già đem ra vắt râu, bắt ăn phân trâu, phân bò, treo ngược tù nhân lên cây, trói vào tổ kiến... Điều kiện sống khắc nghiệt, thiếu thốn đã đẩy những người tù đến dưới hạn tận cùng của sức chịu đựng. Nhiều người lâm vào ốm đau, bệnh tật song không có thuốc uống, không có cán bộ y tế khám chữa. Số lượng tù nhân chết vì đau ốm ngày càng nhiều, có đợt phải chứng kiến 19 tù nhân bỏ mạng cùng một lúc.
Sự đối xử của thực dân Pháp và tay sai đối với tù chính trị trên công trường Đăk Pao, Đăk Pét là hết sức tàn ác. Tội ác của chúng không sao kể hết. Chỉ trong vòng 6 tháng ngắn ngũi làm đoạn đường 15 km tại Đăk Pao, Đăk Pét, đã có 150 trong số 295 tù chính trị bị chết một cách thê thảm, số còn lại chỉ còn là da bọc xương. Trong Hồi ký của các đồng chí Ngô Đức Đệ và Lê Văn Hiến đã ví đoạn đường này như “Địa ngục của trần gian”. Trong tình cảnh áp bức, đau thương và đầy uất hận, một số tù nhân cùng cực đã nghĩ đến lấy cái chết để kết thúc sự đau khổ, tủi nhục; một số người đã chủ trương bạo động để giải phóng, thoát thân song kế hoạch chưa kịp thực hiện thì đã bị bại lộ và bị giết chết.
… đến cuộc đấu tranh vang động núi rừng
Giữa năm 1931, Kon Tum bước vào mùa mưa, thực dân Pháp đưa tù chính trị trở về nhà lao Kon Tum để giam giữ và tiếp tục bóc lột lao động khổ sai trong vùng thị xã.
Đầu tháng 7-1931, sau khi Chi bộ binh ở nhà lao bị khủng bố, địch đưa đồng chí Ngô Đức Đệ - người tù chính trị bị giam đầu tiên tại Nhà lao Kon Tum ra giam ở Lao ngoài. Tại đây, số tù chính trị cũ và mới gặp nhau, đồng chí Ngô Đức Đệ đã thông báo về tình hình tù nhân làm đường, sự đàn áp, đày đọa tù nhân của kẻ địch, tình hình của Chi bộ binh, Chi bộ đường phố… Anh em tù chính trị đã hình thành một Ban Lãnh đạo chung và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên. Ban Lãnh đạo nhất trí hạ quyết tâm: "Muốn sống, không có con đường nào khác ngoài con đường đấu tranh mà Đảng đề ra. Muốn bảo đảm cuộc đấu tranh thắng lợi nhất định chúng ta phải làm cho anh em đoàn kết nhất trí, có quyết tâm cao. Phải đấu tranh kiên quyết, bền bỉ, có kế hoạch chu đáo". Mục tiêu đấu tranh là đòi thực dân Pháp bãi bỏ chế độ giết người dã man đối với tù chính trị, ưu đãi tù chính trị... Từ tháng 9-1931, Ban đã thành lập Đội cảm tử và Đội quyết tử tiên phong, bất khuất trong quá trình đấu tranh với bọn cai trị thực dân, tay sai. Từ đó, nhiều cuộc đấu tranh của tù chính trị dưới nhiều hình thực đã liên tiếp nổ ra, trong đó có cuộc đấu tranh lưu huyết phản đối việc bắt tù chính trị lên Đăk Pét lần 2.
Sáng ngày 12-12-1931, bọn thực dân, tay sai đã chia tù nhân theo từng tốp đi làm, chúng giữ lại 40 người ở Lao ngoài (đều là thành viên trong đội cảm tử, quyết tử) để tiếp tục đưa lên công trường Đăk Pao, Đăk Pét. Do có sự chuẩn bị từ trước, tất cả 40 anh em tù chính trị đã chạy thẳng vào phòng giam hô to khẩu hiệu:"Phản đối đi Đăk Pét", "Phản đối chính sách tàn ác của Chính phủ đối với chính trị phạm".
Trước sự kháng cự quyết liệt và có chủ ý của tù nhân, Công sứ và Giám binh Pháp đã điều binh lính kéo đến bao vây xung quanh nhà lao. Trong lao, 40 anh em vẫn tiếp tục hô to khẩu hiệu: "Phản đối đi Đăk Pét". Tất cả đều đồng lòng siết chặt hàng ngũ đứng trước cửa lao, không để cho binh lính xông vào lôi một ai ra. Sự quyết tâm, gan dạ của anh em tù chính trị đã khiến bọn thực dân, tay sai mất bình tĩnh và tiếp tục gieo thêm tội ác. Đồng chí Trương Quang Trọng (mang số tù 303) là người chiến sĩ Cộng sản đầu tiên gục ngã trước họng súng tàn ác của chúng. Sự hy sinh anh dũng của đồng chí Trọng đã thúc giục tinh thần của anh em tiếp tục đấu tranh phản đối kịch liệt. Được lệnh của tên Công sứ, bọn lính đồng loạt xả súng vào các anh em trong tù, 8 đồng chí bị bắn chết tại chỗ và 8 đồng chí khác bị thương. Sau khi bắn giết xong, bọn lính ùa vào bắt 24 người còn sót lại tiếp tục chở lên công trường Đăk Pét.
Sáng ngày 13-12-1931, số anh em tù nhân còn lại đã tổ chức Lễ truy điệu cho các đồng chí, đồng đội đã hy sinh trong niềm đau thương và nổi phẫn uất vô hạn. Chiều ngày 13-12-1931, Bản tuyên ngôn Chính trị và Yêu sách của tù nhân được soạn thảo và dịch ra tiếng Pháp, tiếng các dân tộc bản địa. Bản tuyên ngôn vạch trần chế độ đối xử tàn bạo của thực dân Pháp với tù chính trị và đòi nhà cầm quyền Pháp phải chịu trách nhiệm về sự tàn bạo đó. Ngọn lửa đấu tranh của anh em tù chính trị ngày càng thổi bùng, quyết liệt. Từ ngày 12 đến ngày 16-12-1931, anh em tù nhân tiếp tục tổ chức đấu tranh để phản đối bằng hình thức tuyệt thực. Sáng ngày 16-12-1931, thực dân Pháp tiếp tục nổ súng đàn áp cuộc đấu tranh tuyệt thực, làm 7 đồng chí hy sinh và 8 đồng chí khác bị thương.
Cuộc đấu tranh Lưu huyết và Tuyệt thực tại Ngục Kon Tum chỉ diễn ra trong thời gian rất ngắn, thực dân Pháp đã giết hại 15 đồng chí và làm bị thương 16 đồng chí. Các tù nhân còn lại vẫn bị chúng đưa lên tiếp tục làm đường Đăk Pao, Đăk Pét.  Tuy nhiên , cuộc đấu tranh đã thể hiện bản lĩnh, khí phách hiên ngang của các chiến sỹ Cộng sản trước mũi lê, hòn đạn kẻ thù. Vì lý tưởng Cộng sản, khát vọng độc lập cho Tổ quốc, cho quê hương, họ tự nguyện “chết cho sự sống, chết một người để cứu sống muôn người”. Cuộc đấu tranh không cân sức giữa  những người tù chính trị bị xiềng xích, gông cùm với bọn thực dân, tay sai có trong tay dư thừa súng đạn đã được Nhân dân Kon Tum tận mắt chứng kiến. Đồng bào các dân tộc Bắc Tây Nguyên vô cùng khâm phục ý chí kiên cường của những người tù Cộng sản. Qua đó, Nhân dân càng hiểu rõ hơn về những người Cộng sản; về bản chất, lý tưởng Cộng sản; càng hiểu hơn về Đảng. Qua đó, Nhân dân Kon Tum nguyện đi theo Đảng để giành độc lập, tự do. Cũng từ sự kiện này, nhiều binh lính trong hàng ngũ địch đã ngã theo về phía cách mạng.
Cuộc đấu tranh đã gây chấn động đối với bọn thực dân Pháp ngay tại Kon Tum và trên toàn cõi Đông Dương, khiến thực dân Pháp phải có nhiều sự thay đổi, nhượng bộ như: chế độ lao dịch của tù, bãi bỏ chế độ đánh đập tù nhân, người tù ốm đau được nghỉ và có thuốc men… Đến cuối tháng 12-1931, chúng đã bỏ hẳn việc đưa tù chính trị đi làm đường 14 ở Đăk Pao, Đăk Pét. Và sau đó, năm 1934, thực dân Pháp buộc phải bỏ hẳn nhà đày Kon Tum. Đó chính là minh chứng cho sự thất bại của kẻ thù trước sự đấu tranh anh dũng, bền bỉ của các chiến sỹ  tù Cộng sản và Nhân dân các dân tộc Kon Tum.
86 năm đã trôi qua, quá khứ đã khép lại, lịch sử đã sang trang, song những tội ác của chế độ thực dân, đế quốc vẫn còn in đậm trong trái tim  những con người Việt Nam yêu nước. Hình ảnh các chiến sỹ ngã xuống để giữ gìn khí tiết người Cộng sản mãi mãi không phai mờ trong tâm trí của người dân Kon Tum.

Nguồn tuyengiaokontum.org.vn

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thư viện ảnh
Nội dung thông tin cung cấp trên cổng thông tin điện tử: