Mở đầu
TRUYỀN THỐNG “TUỔI NHỎ CHÍ LỚN” CỦA CON TRẺ VIỆT NAM Trên thế giới hiếm có một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam ta, trong tâm thức của mọi thế hệ từ đời này đến đời khác đều khắc sâu dấu ấn những hình tượng truyền thuyết để cắt nghĩa cội nguồn và sức sống của dân tộc mình. Dân ta luôn tâm niệm công ơn mở nước của vua Hùng được tôn phong là Quốc tổ. Dân ta còn sùng kính thần tượng Bà mẹ trong tín ngưỡng dân gian "thờ Mẫu" rất gần với lòng yêu kính người mẹ trong đời thường. Nét đặc sắc nữa là dân ta còn có người anh hùng làng Gióng lên ba đánh giặc được vua phong là Thiên vương còn dân phong là đức Thánh, được hiển thánh, muôn thuở tôn vinh trong sử sách và trong lòng người. Chuyện kể rằng; về đời vua Hùng thứ sáu, đất nước đang yên bình, thì giặc Ân từ phương Bắc tràn xuống mưu toan xâm lược. Được thần linh mách bảo, vua Hùng bèn sai sứ đi khắp nơi kêu cầu hiền tài ra giúp nước. ở làng Phù Đổng (xưa là huyện Võ Ninh, nay là Võ Giàng) có cậu bé lên ba, chưa biết nói và vẫn còn phải ẵm ngửa, nghe lời sứ rao bỗng bật thành lời sai sứ về tâu với vua đúc ngựa sắt, rèn roi sắt, nón sắt nhận lời đánh giặc... Vua lập tức sai rèn đúc vũ khí, còn dân thì góp gạo, góp vải chu tất cho kịp sức lớn vùn vụt của cậu bé làng Gióng. Khi giặc Ân kéo đến núi Châu Sơn (nay thuộc Tiên Du, Bắc Ninh) cậu bé nay thân cao đã hai trượng, đội mũ, cầm roi, leo lên mình ngựa rồi vươn mình ngửa mặt lên trời mà xưng lớn "Ta là thiên tướng nhà trời cứu dân cứu nước". Rồi ngài phóng ngựa, ngựa sắt hí ra lửa cháy cả một vùng nay còn di tích tên gọi Làng Cháy. Ngài vung roi xông vào trại giết giặc đến mức gãy roi thì nhổ những bụi tre để đánh giặc, đến nay di tích vẫn còn là loại tre Đằng ngà... Đánh tan giặc nước, đến núi Ninh Sóc, ngài cưỡi ngựa bay lên trời... Từ đây, giặc ngoại xâm khiếp sợ mà không dám xâm phạm bờ cõi nước ta. Nhớ công ơn người anh hùng, vua Hùng phong ngài làm Phù Đổng Thiên vương, đến đời vua Lý lại phong làm Sung Thiên Thần vương... xây dựng đền miếu thờ phụng và tôn đức Thánh Gióng làm một trong "tứ bất tử" phù trợ cho dân tộc Việt Nam. Còn dân gian mộc mạc gọi ngài là Ông Gióng, vào tháng tư âm lịch hàng năm lại mở hội để tưởng nhớ đến người anh hùng đã khởi đầu cho một truyền thống vẻ vang "tuổi nhỏ chí lớn" của con trẻ Việt Nam. Trải qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, hình bóng lớp con trẻ Việt Nam vẫn thấp thoáng trong những trang sử đầy máu lửa của cuộc chiến tranh giữ nước và đẫm mồ hôi của công cuộc khai phá dựng xây đất nước: Trí thông minh của Đinh Bộ Lĩnh trong các cuộc "tập trận cờ lau" khi còn nhỏ giúp ta hiểu được công trạng dẹp loạn sứ quân, thống nhất bờ cõi để lập nên triều đại nhà Đinh thời đầu tự chủ, cuối thế kỷ thứ X. ý chí cường tráng của trang thiếu niên Trần Quốc Toản bóp nát trái cam để đòi ra trận ghi trên lá cờ thêu sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" đã trở thành hình tượng "cả nước đồng lòng" không thể nào quên trong pho sử oai hùng ba lần đánh thắng giặc Nguyên - Mông của triều đại nhà Trần thế kỷ XIII. Tài học thần đồng của Nguyễn Hiền, đỗ trạng khi tuổi còn thiếu niên, 13 tuổi, cách nay đã hơn nửa thiên niên kỷ, mãi mãi trở thành biểu tượng trí tuệ của sự nghiệp hun đúc hiền tài, bồi dưỡng nguyên khí quốc gia... Nhưng chúng ta sẽ hiểu hơn về lớp thiếu niên Việt Nam trong lịch sử, nếu chúng ta ghi nhận những gương mặt rất trẻ đã làm rạng rỡ lịch sử nước nhà. Bà Trưng Trắc khi "phất cờ nương tử thay quyền tướng quân" nổi dậy đánh giặc Hán, giải phóng 65 thành quách ở đầu Công nguyên này (năm 40) tuổi chưa đến hai mươi; Bà Triệu khởi binh ở căn cứ Ngàn Nưa (Thanh Hóa) mang ý chí "quyết cưỡi gió, đạp sóng, chém cá Kình biển Đông..." mới 20 tuổi; đại anh hùng Nguyễn Huệ lúc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ mới 18 tuổi. Còn ở thế kỷ XX này, Phan Bội Châu 17 tuổi đã viết bài hịch "Bình Tây thu Bắc" để hưởng ứng chiếu Cần Vương, lập đội "sĩ tử Cần Vương" phần lớn toàn những thiếu niên trai trẻ mưu sự vũ trang đánh Pháp, còn ông vua Duy Tân mới 16 tuổi đã từ bỏ ngai vàng kết liên với các nhà cách mạng định làm cuộc binh biến chống thực dân. Khi phát động phong trào Đông Du Phan Bội Châu cũng đã gửi những con em của mình sang Nhật học hỏi, về lâu dài là để chuẩn bị cho cuộc vận động cách mạng đã đặt hoài bão vào ngày trở về Tổ quốc "thì những thiếu niên nước ta sẽ bay nhảy hô vang, khua cá sấu mà chống lại rồng trời, non sông gấm vóc của ta sẽ rực rỡ tốt tươi, uy sấm sét sẽ đuổi hết lũ quỷ ma..." (Phan Bội Châu toàn tập). Trong số lớp chiến sĩ Đông Du này chúng ta biết đến những tên tuổi như Trần Văn Yên, Trần Văn Thu và Hoàng Vĩ Hùng ở Nam Kỳ (trong Phan Bội Châu toàn tập) nêu trên ghi rằng đó là "ba tên bé con"; còn Lương Ngọc Quyến, con trai của nhà ái quốc nổi tiếng Lương Văn Can, người sau này đã đứng ra làm cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên (1917), lúc vượt biển Đông Du cũng chỉ tròn 15 tuổi. Và cũng chính vào thời điểm phát động phong trào Đông Du, Phan Bội Châu cũng có ý định gửi người con trai của người bạn đồng hương và đồng chí của mình, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là Nguyễn Sinh Cung sang Nhật. Nguyễn Sinh Cung năm đó đã sắp bước vào tuổi thanh niên, nhưng con người trai trẻ này đã từng thuật lại rằng: "Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do - Bình đẳng - Bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy... và tôi đã vượt biển ra nước ngoài". Người thiếu niên Nguyễn Sinh Cung ấy đã từ chối con đường Đông Du và khi đến tuổi trưởng thành đã chọn một con đường hoàn toàn khác, Nguyễn Tất Thành đã rời Sài Gòn năm 1911 để thực hiện những hoài bão được nhen nhóm từ độ thiếu niên. Nói đến độ tuổi thiếu nhi, thiếu niên là nói đến buổi khởi đầu cho sự hình thành những nhân cách và nuôi dưỡng những hoài bão sẽ được phấn đấu khi đến tuổi trưởng thành. Thế hệ thiếu nhi đầu tiên của thế kỷ XX, những người sau đó sẽ trở thành lực lượng nòng cốt của cách mạng Việt Nam, cũng là những chiến sĩ tiên phong của Đảng, của lớp người sẽ tập hợp và đào tạo các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam đi theo lý tưởng yêu nước và cộng sản đã được tiếp nhận từ trong truyền thống xa xưa của dân tộc những tân phong của Thánh Gióng, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Quốc Toản, Nguyễn Hiền... bằng cả một nền giáo dục truyền thống thấm đẫm tình yêu nước và khát vọng tự do. Hãy đọc "bài thứ nhứt" mở đầu cho một tác phẩm của cụ Phan Bội Châu dùng để giáo dục con trẻ Việt Nam ở đầu thế kỷ XX, chúng ta sẽ hiểu được trong tiềm thức của mỗi con người Việt Nam từ thời ấu thơ đã chứa đựng những nguồn lực tiềm ẩn được tích tụ từ trong dòng máu của một dân tộc sớm có truyền thống "tuổi nhỏ chí lớn". "Bài thứ nhứt:
- Trò là người nước nào?
- Thưa: tôi là người nước Nam.
- Tên nước Nam gọi bằng gì?
- Thưa gọi bằng nước Việt Nam...
- Trò đã là người Việt Nam thì nước Việt Nam là chi của trò?
- Thưa là bào thai mẹ tôi đẻ ra tôi.
- Vậy thì trò gọi nước Việt Nam bằng chi?
- Thưa, gọi bằng nước Mẹ...
- Vì sao nước Việt Nam lại được thương yêu kính trọng nhất?
- Thưa, là bởi vì có nước Việt Nam mới có cha mẹ, anh em, chị em, thầy và bạn tôi và tôi. Nếu không có nước Việt Nam thời cha mẹ tôi, anh em tôi, chị em tôi, thầy bạn tôi tất là không có cả...".
Chí lớn có ở tuổi nhỏ bắt nguồn từ đó.